Nguyễn Phú - những trang văn đẹp và buồn!
Khi có tác phẩm đầu tiên in trên Văn nghệ Quân đội trong cuộc thi truyện ngắn 2008 - 2009, Nguyễn Phú mang quân hàm Thượng úy, công tác tại một đồn biên phòng thuộc huyện Hoàng Su Phì (Hà Giang). Có lẽ, ở địa hạt truyện ngắn, anh là tác giả đầu tiên của thế hệ 8X viết về miền núi phía Bắc, tiếp nối thế hệ thành danh đi trước, là Phạm Duy Nghĩa, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Xuân Thủy,...
Kết thúc cuộc thi, Nguyễn Phú cùng với Nguyễn Anh Vũ, Nam Ninh đoạt giải Nhì, không có giải Nhất. Với một số người trẻ, giải thưởng văn chương là cú hích, là chất men say để họ dấn thân, quyết liệt với niềm đam mê chữ nghĩa, sẽ viết nhiều và tận dụng mọi ưu thế để công bố tác phẩm. Nguyễn Phú lặng lẽ đi theo một con đường khác, chậm rãi, thong thả với việc viết văn, viết báo, thi thoảng mới xuất hiện. Không thích những chốn xô bồ, náo nhiệt, ít xuất hiện tại các kì/cuộc thi, dường như cái tên Nguyễn Phú cứ “khuất lấp” đâu đó.

Nhà văn Nguyễn Phú.
Đã gần 20 năm trôi qua, nay đã mang cấp bậc Thượng tá, Nguyễn Phú làm công tác giảng dạy tại Học viện Biên phòng. Không sốt ruột với việc ra sách, mặc dù có mặt trong khá nhiều các tuyển tập truyện ngắn hay, nhưng đến giữa năm 2024, anh mới xuất bản tập truyện ngắn đầu tay - “Giấc phai” (NXB Quân đội nhân dân).
Sau đó là tập truyện thứ hai: “Hoa pằng nảng rơi rơi” (3/2025, NXB Văn học), tập hợp 12 truyện tiêu biểu về một vùng văn hóa, không gian sáng tạo là miền núi. Tập truyện này xác quyết Nguyễn Phú là một tác giả truyện ngắn của vùng cao phía Bắc - vốn là địa bàn anh từng công tác nhiều năm, và những gì nhà văn trình hiện cũng cho thấy một phong cách truyện ngắn riêng. Viết ít nhưng kỹ và tinh, truyện giàu chất thơ, mỗi truyện ngắn như một bài thơ trong trẻo, thi vị, buồn, đẹp, sâu thẳm tình người.
“Giấc phai” khám phá không gian đồng bằng vùng Bắc Bộ, nhà văn “thâm nhập” sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật để phơi mở những khát khao về hạnh phúc gia đình, đôi lứa, về những tổn thương, đứt gãy do chiến tranh, do mặt trái của cơ chế thị trường gây nên. Có nhiều trạng huống éo le, ngang trái mà hầu hết các nhân vật nữ ít nhiều đều chịu cảnh đơn lẻ, khổ đau. Tiếng nói của nhà văn là sự cảm thông, chia sẻ với nỗi đau ở đời, với những con người yếm thế, đó là tiếng rung ngân của tinh thần nhân văn, nhân bản.
“Hoa pằng nảng rơi rơi” là bức tranh vùng cao hôm nay gắn liền với cuộc sống lao động, tập quán sinh hoạt cùng những tâm tư, trăn trở của con người vẫn vẹn nguyên nét mộc mạc, hồn hậu đáng quý. “Pằng nảng”, người miền xuôi gọi là cây gạo. Trong truyện cổ của nhiều dân tộc vùng cao phía Bắc có chung mô-típ loài hoa “pằng nảng” là hóa thân của một người con gái chờ đợi người yêu.
Kể rằng ở bản nọ có chàng trai nghèo tốt bụng khỏe mạnh, yêu cô sơn nữ duyên dáng, xinh đẹp. Đám cưới đã chuẩn bị chu đáo thì trời mưa như trút, cơn lũ lớn hung dữ cuốn phăng tất cả. Dân bản bàn nhau trồng cây nêu để chàng trai lên trời hỏi cho rõ sự tình. Ngày đi, chàng buộc vào tay người yêu băng vải đỏ, mỗi đầu có tua năm cánh, hẹn ngày trở về. Cây nêu biến thành cây pằng nảng mà chàng trai vẫn bóng chim tăm cá. Từ đó cây thành biểu tượng cho tình yêu không thành. Hoa pằng nảng cứ tức tưởi rụng, vẫn không đổi màu đỏ tươi, như tấm lòng cô gái nọ đau đáu chờ đợi…
Suốt tập truyện dù miêu tả cây lê, cây lim, cây sa mộc… nhưng người đọc vẫn thấy đó là biến thể của cây pằng nảng, như thấy màu hoa pằng nảng nhuộm đỏ không gian truyện hoặc cứ day dứt rơi, xót xa, tiếc nuối… Nguyễn Phú đã rất khéo tựa vào các mẫu gốc văn hóa mà viết những câu chuyện nhiều khi không có truyện để tạo hình các dạng vẻ thiên nhiên và lột tả tâm lý nhân vật chỉ có nơi vùng cao Tây Bắc. Đấy là một tiền đề cho chất thơ bảng lảng bay khắp các không gian, đậu vào những dòng văn đẹp, giàu chất điện ảnh, tạo hình, tạo sắc sống động.
Tập sách như chứng minh một quy luật nhà văn phải sống sâu vào đời sống để nắm bắt nhịp đời, thấu hiểu cảnh đời, cảnh trời và thấu cảm những suy tư khao khát, mới có thể viết ra những trang văn có hồn. Phải thật hiểu không gian Tây Bắc mới có vốn để tả những đêm trăng thi vị chỉ là vẻ ngoài, còn ẩn sâu dưới vực, dưới những mảnh nương, những cánh rừng, những chân núi… là cuộc sống cạnh tranh căng thẳng của muôn loài vật. Còn bên trong những mái nhà sàn im lìm trong sương đêm là những trái tim thổn thức…
Ngoài tái hiện các tập quán sinh hoạt với tục ma chay (ma khô, ma tươi), sinh nở, hôn nhân,… nhà văn cũng miêu tả thật khéo các chàng trai mới lớn dẻo dai, mạnh mẽ đi lên nương, có khi cả ngày không nghỉ. Còn các cô gái xinh tươi đeo những vòng bạc sáng lấp lánh có sức mê hoặc. Không chỉ rõ ngọn ngành những lối sống, lẽ sống, còn hiểu cả mặt trái, như để “lên” chức Chủ tịch xã thì trước đó phải nhiều con trâu “xuống” núi…
Văn hay phải tạo ra sự ám ảnh. Với tập truyện, các hình tượng gây day dứt, thương cảm ở người đọc là hình tượng nhân vật nữ. Họ là Dúa (Hoa pằng nảng rơi rơi), Si (Lá chao đỏ), Chớ (Ngôi nhà trên dốc gió), Sỏa (Phiên chợ cuối cùng), Mảy (Bông pằng nảng cuối mùa xuân)… và rất nhiều nhân vật nữ có tên và không rõ tên khác nữa.
Họ là sự hiện thân cho những khát khao tình yêu, tự do, hạnh phúc nhưng chưa vượt thoát ra khỏi cái lưới bùng nhùng những lề thói tiêu cực của thần quyền, tục quyền. Họ có chịu làm “tù binh” cho hủ tục và cả thói ích kỷ của những đàn ông? Câu hỏi ấy, day dứt ấy vọng ra tập sách mời gọi và chờ đợi bạn đọc trả lời thay trong sự đồng cảm lẽ người, thấu cảm lẽ đời.
Để tăng cường tính tạo hình và đẩy câu chuyện về gần hơn với đời thực, tập truyện dùng nhiều so sánh ví von tươi rói, thú vị, có những so sánh ở mức “ngoa dụ” nhưng lại hết sức “có lý” bởi nó gần với tư duy tâm lý đồng bào: “Đấy là Si Mã Phìn, nơi có những đỉnh núi nhọn hoắt như những mũi dao dựng ngược ủ trong mây. Nơi ấy là xứ sở của những bông tuyết đào lấp lánh màu hồng ngọc. Nơi ấy con gái được đàn ông, con trai khắp các vùng trên cao nguyên này ao ước. Cụ truyền tai ông, ông truyền tai bố, rồi bố lại truyền tai những thằng con trai rằng được một lần với đứa con gái của Si Mã Phìn thì cả đời sẽ không quên, dù có bị phơi xác cho quạ tha cũng đáng” (Tuyết đào).
Một đóng góp về cách kể là cấu trúc lời văn theo lối nửa trực tiếp, vừa là lời nhân vật vừa là lời người kể khó phân biệt tạo ảo giác nhân vật như vừa gần vừa xa, thật đấy cũng là ảo đấy, như: “Mưa xuân bay bay ngoài mái hiên. Từng đợt gió âm ấm tràn về… Sáng nay chỉ còn mình Mây ở nhà. Mây phải trông vạc rượu tết cho bố” (Trăng non treo đỉnh núi). Cái nhìn, quan điểm của Mây chen vào lời văn người kể, như giành cái quyền giãi bày, than thở, trách cứ, giận hờn… Lời văn nhờ thế sống động, có hồn, có tình người, tính người.

Tập truyện ngắn “Hoa pằng nảng rơi rơi” của Nguyễn Phú.
Thường là được sống ở xứ thơ sẽ dễ trở thành nhà thơ. Mà không gian vùng cao tự thân chúng đã là những đối nghịch, mà Nguyễn Tuân đã khái quát là “hung bạo và trữ tình”, để tạo chất thơ. Ai đã từng là lính biên phòng được mơ mộng vào những buổi chiều vùng biên giữa mùa xuân mấy chục năm trước, khi nắng vàng rót mật xuống các đồi sim bên kia thung đang nở hoa, lúc ấy không gian mới đẹp nhất và cũng bồn chồn nhất.
Phải nhìn lúc ấy mới thấy cả triền sim tím da diết bập bùng trước nắng và gió thấp thoáng bóng các sơn nữ… Tiếng lục lạc gọi trâu về bản. Tiếng khèn ở bản lưng chừng núi vọng lại “thiết tha, bồi hồi”… Vẳng từ xa lắm, hoang hoải, thảng thốt tiếng nai tác… Chiều xuống rất nhanh. Hoàng hôn tím thẫm. Chàng lính ta hết mơ mộng để rồi sâu lắng một nỗi buồn mà tự thầm hát “Màu tím hoa sim” (thơ Hữu Loan): “Chiều hành quân/ Qua những đồi hoa sim/… Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết…”. Nguyễn Phú là chàng lính ấy.
Văn chương là con đường dài, đầy chông gai nhưng cũng đầy hấp lực. Đi và đi đến đâu trong hành trình của mỗi người viết phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: tài năng, sự dấn thân và cả cái “duyên”, “lộc” với nghiệp chữ. Mỗi nhà văn với sự nhạy cảm vốn có hẳn sẽ có hướng đi riêng trên con đường định vị bản thân giữa cánh đồng chữ nghĩa. Thời gian qua, ít nhiều Nguyễn Phú đã để lại ấn tượng đẹp trong lòng độc giả. Tôi tin, với bản lĩnh của một người lính, tình yêu con chữ chưa khi nào vơi cạn, Nguyễn Phú sẽ tiếp tục con đường sáng tạo văn chương mang tên: Đẹp & Buồn!