Nguyễn Thụy Kha – Một đời lang bạt, một đời tài hoa

'Bố cháu yếu lắm, cô ạ'- Mới trước đó một ngày cháu Phương An còn điện thoại cho tôi, ấy vậy mà 10h45 phút sáng 13/3/2025, Nguyễn Thụy Kha đã trút hơi thở cuối cùng. Tôi viết bài này như một lời tiễn biệt!

Chao ôi, Kha voi - cái hỗn danh thời trẻ tôi vẫn nghe nhiều người gọi - đã hơn sáu tháng nằm trong bệnh viện vì bạo bệnh. Bé Phương An chính là cảm hứng để bố Thụy Kha viết bài hát “Mùa xuân có bao điều lạ”:

Én có gì lạ - báo mùa xuân sang

Và đất có gì lạ - cánh mai vàng ươm

Pháo có gì lạ - mà tiếng nổ vang

Bài hát có gì lạ làm em rộn ràng…

Mới ngày nào, buổi sáng còn ngồi sau xe đạp để bố đưa lên gửi nhà bác Nguyễn Kim Nữ Hạnh ở đầu phố Trần Hưng Đạo, chiều lại đón về. Giờ con thơ, bố đau, mẹ yếu tất bật.

Với tôi, Kha là những năm tháng thanh xuân tươi đẹp, những năm 1989-1990 của thế kỷ trước, lang thang theo anh đến những cuộc tụ tập bạn bè. Vui nhất lúc ấy là sân 51 Trần Hưng Đạo (Hà Nội). Ở đó có Trịnh Thanh Sơn, Hồ Thi, Ngô Thảo, Thanh An, cụ Hoàng Cầm cũng hay có mặt, Nguyễn Đình Toán kè kè chiếc máy ảnh, Nông Quốc Bình, Hoàng Hồng Cẩm, thỉnh thoảng thấy cả cụ Huy Cận…

Anh gọi sân 51 đông đúc ấy là "cái tổ len". Ngày ấy nghèo lắm, chỉ có mấy quán nước chè, vài chai cuốc lủi, lạc rang. Sang lắm thì kéo nhau ra quán cà phê ở tầng dưới khách sạn Đường Sắt, góc ngã tư Lý Thường Kiệt - Phan Bội Châu. Tôi nhớ cụ Đoàn Chuẩn hay ngồi đó. Dù thời kỳ ấy ai cũng nghèo khó, nhưng cụ vẫn giữ phong thái ung dung, công tử, nụ cười hiền hậu và ánh mắt nheo nheo. Anh kể cho tôi nghe về những mối tình đã làm nên những bản tình ca của chàng nhạc sĩ đa đoan (Đoàn Chuẩn) ấy.

 Nhà thơ Nguyễn Thụy Kha trong một lần giao lưu cùng khán giả

Nhà thơ Nguyễn Thụy Kha trong một lần giao lưu cùng khán giả

Chẳng hiểu sao anh hay rủ tôi đi chơi. Anh hay nói: “Mai có cuộc này, cuộc nọ…”, nếu thấy tôi ngần ngừ, anh lại nói thêm: “Vui mà.” Thế là tôi lại lẽo đẽo theo anh. Cuộc nào có Kha chẳng vui? Anh cao to, trông có vẻ bột nhưng lại đầy chất sóng gió giang hồ. Trí nhớ của anh đặc biệt lắm, nhớ từng bài hát, bài thơ, sáng tác lúc nào, của ai, như một cuốn từ điển sống. Đến giờ, tôi vẫn nhớ anh từng đập tay xuống bàn làm nhịp, hát “Bài ca đặt vòng” với đoạn: “A, chị em ta nay đã đặt vòng…” làm cả đám lăn ra cười.

Có lần tôi theo anh đến thăm cụ Đặng Đình Hưng nằm ở viện Việt Xô. Cụ là người cha của danh cầm nổi tiếng Đặng Thái Sơn. Khi nghe họ nói chuyện về cuốn "Ô mai" cụ viết mà chưa in được, cụ quay ra hỏi chuyện tôi. Nghe tôi nói làm xây dựng, cụ bảo Kha: "Không cùng nghề thế là tốt". Khi đó, tôi mải kính cẩn nghe chuyện, không ngờ cụ lại nghĩ tôi là người yêu Kha. Ôi, lúc ấy tôi như con ngỗng ngơ ngác, có nghĩ gì đâu! Chắc không chỉ cụ Hưng mà nhiều người cũng nghĩ vậy. Thế mà chúng tôi cứ thế đi chơi với nhau suốt mấy năm liền, chẳng có chuyện yêu đương gì. Có lẽ Kha voi thấy thú vị với con ngỗng lộc ngộc, hồn nhiên là tôi, đi bên nhau cao ngất ngưởng so với mọi người xung quanh cũng vui nên hay rủ tôi đi cùng.

Những năm 1989-1990, cả nước đang trong cơn chuyển mình, mở tung cánh cửa kinh tế thị trường. Cán bộ, công nhân viên nghỉ ăn 70%, rồi 30% lương, rồi nghỉ hẳn, tự nuôi gà, nuôi lợn, đan len, cuộn thuốc lá, buôn bán… nghĩa là tự xoay xở mà sống. Nguyễn Thụy Kha khi ấy đang ở những tháng năm cuối cùng của đời quân ngũ. Lương lính chẳng được bao nhiêu, rồi anh xuất ngũ, chuyển về làm việc ở tạp chí Âm nhạc. Lúc ấy, tôi mới biết anh ra quân với quân hàm Thiếu tá.

Nhưng đổi lại, những năm tháng chiến tranh đã biến chàng lính trẻ thành nhà thơ Nguyễn Thụy Kha, với bài thơ "Mưa đồng hành" đoạt giải Nhì cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1982 và tập thơ "Thời máu xanh" viết về những người lính thời chống Mỹ. Những bài thơ của anh chất chứa nỗi ám ảnh về chiến tranh, những gương mặt xanh tái vì đói, vì sốt rét, những thanh xuân ngã xuống...

Số phận ném “thằng bé bụi đời lang thang phố xá” Nguyễn Thụy Kha (như anh tự nhận) vào cuộc chiến, đi qua những chiến trường khốc liệt nhất, trôi dạt trên mọi miền đất nước. Để rồi, tôi luyện ra một thi sĩ Nguyễn Thụy Kha ngang tàng, giang hồ, nhưng đầy trắc ẩn, ưu tư.

 Tài hoa và đức độ, Nguyễn Thụy Kha luôn được người yêu thơ kính trọng.

Tài hoa và đức độ, Nguyễn Thụy Kha luôn được người yêu thơ kính trọng.

Cuộc mưu sinh bằng chữ nghĩa nhọc nhằn chỉ đủ trang trải cho những cuộc ngao du, những bù khú bạn bè. Nhưng cũng chính những cuộc rong chơi ấy mở ra một Thụy Kha nhà báo, một Thụy Kha nhạc sĩ. Dù có là thi sĩ, nhạc sĩ hay nhà báo, anh vẫn là Kha voi nghênh ngang, giang hồ, nhưng vô cùng yêu quý bạn bè, đồng đội, đầy nghĩa khí và đa đoan, ấm áp. Chẳng đa đoan, ấm áp thì làm sao có những câu thơ:

Đưa người yêu qua nhà người yêu cũ

Trong cơn mưa ban trưa

Thấy hồn mình tách thành hai nửa

Nửa ướt bây giờ nửa ướt xa xưa.

Giờ đây, anh nằm trên giường bệnh với những ống dây chằng chịt. Cơn bạo bệnh quật ngã gã thi sĩ giang hồ đất Cảng.

Kha ơi, anh đã vượt qua những đại hạn của "Thời máu xanh" khốc liệt, thì gắng vượt qua đại hạn này nhé! Bạn bè vẫn đang chờ anh, gã “Thi sĩ rong chơi”.

Nhưng không được nữa rồi. Thôi, thanh thản về với mây và gió nhé, Kha ơi!

Nhạc sĩ Thụy Kha sinh năm 1949 tại Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Từ nhỏ, ông đã có mặt ở Dàn hợp xướng Hải Âu của thanh niên, học sinh Hải Phòng và bắt đầu viết ca khúc từ những năm tháng còn là sinh viên.

Ông bắt đầu viết báo về âm nhạc từ năm 1977, nhưng phải từ năm 1988 đến nay, những vấn đề âm nhạc ông nêu ra mới càng ngày càng được dư luận chú ý. Ông đã có những cuốn sách viết về âm nhạc được ấn hành như: Văn Cao - người đi dọc biển (Nxb Lao Động, 1992), Nửa thế kỷ Tân nhạc Việt Nam (Nxb Đà Nẵng, 1998), Những gương mặt âm nhạc thế kỷ (2000), Nguyễn Thiện Đạo - nhạc sĩ bị giời đày, Huy Du - đời và nhạc…

Ngoài viết báo, phê bình tiểu luận về âm nhạc, ông còn sáng tác ca khúc và tham gia làm các phim âm nhạc hoặc văn học. Từ năm 2008 đến nay, ông viết nhiều hợp xướng có giá trị như: Miền Trung (thơ Hoàng Trần Cương), Quy Nhơn (thơ Văn Cao). Đã xuất bản hai CD tác phẩm Miền yêu dấuTình ca cây cầu (2009).

Ông đã có một số ca khúc cho thiếu nhi và người lớn được ấn hành và thu thanh ở Đài tiếng nói Việt Nam như: Qua cầu Hàm Rồng, Kỷ niệm rừng Lào, Âm vang nhà máy, Lời ru mùa thu, Trong mắt má yêu thương, Em yêu thiên nhiên, Khúc hát mùa hè… Đặc biệt bài Mùa Xuân bao điều lạ (phỏng thơ Định Hải) được nhiều thế hệ thiếu nhi ghi nhớ.

Ông cũng có nhiều bài thơ được phổ nhạc như: Trong ta thu về (nhạc Chu Minh), Chiều không em (nhạc Huy Du), Chiều không em (nhạc Phú Quang), Về Hải Phòng (nhạc Phú Quang)… Nhạc sĩ Thụy Kha từng đoạt nhiều giải thưởng âm nhạc và các giải về lý luận của Hội Nhạc sĩ Việt Nam liên tục từ năm 1996 đến năm 2006.

Lê Anh Thúy

Nguồn VietTimes: https://viettimes.vn/nguyen-thuy-kha-mot-doi-lang-bat-mot-doi-tai-hoa-post183561.html