Nguyễn Tiến Đạt 'vẫn còn đây thương nhớ'
Đó là tên một bài thơ anh Nguyễn Tiến Đạt in chung với 10 gương mặt thơ Quảng Trị cách đây 32 năm. 'Thì còn đây ẩn hiện những ngày xưa/Sau cuộc tàn còn mấy đầu bè bạn/Em là nơi tôi cần gửi tấm thân nhỏ mọn/Trước khi về lạy mẹ giữa đồi hoang'. Thời gian qua đi, có những con người dù đã mất nhưng bóng dáng họ vẫn ở lại, lặng thầm quấn quýt bên ta như chưa từng rời xa.

Một số tập thơ của nhà báo Nguyễn Tiến Đạt -Ảnh: N.K
Nhắc đến nhà thơ, nhà báo Nguyễn Tiến Đạt nhiều người biết đến bởi trước khi rời “cõi tạm” anh đã kịp để lại một “gia sản” khá đầy đặn về các thể loại thơ, truyện ngắn và tác phẩm báo chí. Với tôi, từ lúc còn là sinh viên văn khoa, trong những chiều tà xứ Huế thường tìm đến các quán sách gần cầu Tràng Tiền, bên bờ sông Hương để tìm đọc những bài thơ của anh đăng trên nguyệt san Kiến thức ngày nay: “Em ơi về với dòng sông/Dòng sông mơ màng mắt trong/Anh người gõ chài xưa cũ/Cho chiều dâng lên mênh mông...” (Nói với người yêu cũ).
Rồi những lần sau đó về thăm nhà tôi thường gặp gia đình anh trên chuyến đò Mai Xá xuôi ngược Đông Hà bởi anh với tôi nhà cách nhau chỉ một quãng đồng. Ra trường, tôi gặp lại anh trong “ngôi nhà chung” Báo Quảng Trị. Sở dĩ, anh Đạt quý mến và yêu thương tôi bởi anh và tôi có một mẹgià ở quê để luôn mong ngóng tìm về.
Vậy nên, xuyên suốt trong thơ anh là cái miền quê nghèo xứ chiếu Lâm Xuân nơi có người mẹgià và mấy cô thôn nữ: “Lũ chúng con sinh ra bên những dòng sông, bên những dòng sông/ Rúc ráy thân hình Người tìm con tôm con tép” (Dòng sông đời mạ); “Thôn quê nghèo khổ! Vâng thưa mẹ/Thấp thỏm lòng con nỗi nhớ về” (Gio Linh) và luôn tự nhận: “Dẫu tôi yêu hoa hồng, hôn nhành violet/ Đọc thơ Puskin và cầm tay người đẹp/Tôi vẫn là mugic của làng tôi/Nơi hạt lúa mùa chiêm mở cánh mặt trời” (Mugic). Bởi vì chính làng quê ấy anh Đạt luôn tìm thấy mẹvà em: “Nước mắt em anh ngỡ/Những giọt sương của trời/Anh như loài dế lửa/Khát sương hoài không thôi” (Mười năm)
Nhắc đến mẹ già, tôi và anh thường nói đến đức hy sinh. Anh kể: “Hồi học ở Huế, mỗi khi thấy tau về ngoài ngọ, mạ tau lật đật chạy ra thoa cái trôốc, dòm cái mặt ốm béo là vác con rạ chặt mấy cộc dương chẻ 5 chẻ 7 phơi cho kịp nắng đem về chợ Hôm bán lấy tiền cho tau vô. Thường thì về vài ngày nhưng có lần phải vô sớm để thi, củi dương chưa kịp khô, xoay không ra tiền, mạ dúi cho bao gạo, xô tau ra cửa, ngoái lại thấy nước mắt bà giàn giụa”.
Tôi kể. “Mẹ tui bán chè đá, có đêm phải chông đèn ngồi đến 1-2 giờ sáng đợi mấy anh trai làng đi tán gái ghé vô ăn hết mấy ly chè. Bởi nếu nước đường và đậu bán không hết thì mai cho con ăn nhưng còn nước đá chảy thì mai lộ vốn. Có sáng tui dậy, chộ mắt mẹ tui đỏ húp”. Tôi và anh nhìn nhau cùng thốt lên. Chao ôi là cực!

Phong cảnh làng quê Gio Mai -Ảnh: T.L
Nói đến sự khổ cực và rặt tính nhà quê thì tôi với anh Đạt có thừa. Dẫu khi là một nhà báo khá nổi tiếng nhưng anh vẫn giữ được cái tính nết chân thật, đạm bạc, đặc biệt là rất thích ngồi nhậu ở cái ô chiếu góc hiên nhà tôi. Nhớ lúc tôi làm nhà, chiều nào anh cũng đến, dựng xe ở ngoài cổng, miệng rít điếu thuốc Jet, thủ thỉ với tôi rằng: “Chú gắng đổ cái mái hiên rộng để có chỗ uống rượu. Gắng làm cho oách với thiên hạ, thiếu tiền anh cho mượn.”
Tôi làm theo ý anh để có một mái hiên vừa đủ trải vuông chiếu cho 4 người ngồi. Nợ nần chất đống, có mấy bận dạm hỏi mượn, anh gãi đầu. Êm rứa! Nhưng cũng đến một chiều, anh tất tả chạy về, mặt hớn hở.
“Có tiền rồi, tối vợ chồng chú lên chị mà lấy nghe”. Thì ra anh mới nhận giải thưởng báo chí được mấy triệu bạc, về đưa vợ để cho tôi mượn làm nhà. Anh luôn chân thật, là mẫu đàn ông luôn xem nhẹ đồng tiền.
“Em về mà bán chiếu gon/Chiếu gon đan xong dịp tết/Tiền anh chẳng lấy một đồng/Mùa lạnh anh ngồi khơi bếp” (Nói với người yêu cũ). Có hình mẫu đàn ông nào đẹp hơn, có người vợ nào hạnh phúc hơn khi được “sở hữu” một người chồng chăm bẵm làm lụng và ung dung tự tại với cuộc đời. Coi nhẹ kim tiền và xa lánh với bon chen thường nhật, Đạt luôn tự tin rằng: “Còn lương nhuận bút còn khinh nợ/Chi chi cũng sống đến bạc đầu” (Dặn mình). Và anh luôn tiếu ngạo: “Chi chi cũng một con người/Tiền tiền bạc bạc thế thời chen chân/Cơm cơm áo áo công danh/ Lên voi xuống chó cũng thân thằng này” (Tiếu ngạo tuổi ba mươi).
Hồi đó, cái vuông chiếu và góc hiên nhà tôi trở thành “địa chỉ vui” anh Đạt thường ghé lại mỗi ngày. Riết thành quen, chiều nào anh chưa về là tôi thấy trống vắng. Mà chẳng cao lương mỹ vị gì, rượu thuốc ngâm cả thẩu rót ra chai, mồi thì vài con cá khô đôi lúc kẹt quá thì với tay bứt mấy trái xoài xanh bên vườn nhà ông hàng xóm chấm muối. Anh không cầu kỳ miễn là có được cái “sân chơi” để ngồi tán phét. Phải thú nhận rằng, anh có năng khiếu bày đặt chuyện làm bọn tôi tin sái cổ nhưng hỡi ôi đó là lúc “rượu kể” chơ có phải là ông mugic làng Lâm Xuân kể mô. Nhiều lần bịa chuyện bị bại lộ, Đạt mới tiếu táo thú nhận rằng chỉ để mua vui cho mấy chú.
Vậy nhưng định mệnh đã sắp đặt, cái ô vuông nhà tôi cũng không thể giữ được anh. Bận đó, anh bảo: “Đợt này bác cũng nới cái hiên, lót thêm vài viên gạch cho sáng sủa để mấy chú đến uống rượu”. Anh làm thật và tôi có đến xem nhưng chao ôi, cái ô vuông ấy tôi chưa kịp cùng anh uống rượu thì một tai nạn bất ngờ đã kéo anh về với đồng đất Lâm Xuân. Lúc đưa anh ra, mẹ anh khụy xuống, tôi đã kịp đỡ bà dậy, dìu bà đi theo nỗi đau quặn xé lòng người. “Biết làm sao, biết làm sao khác được/Thì mong chi! Thưa mạ chút an lòng/Bất chợt chiều nay một mình đứng bên sông/Ngoảnh mặt về quê gọi con đò hoang vắng/Giật mình-thân mạ- chống trời mây...” (Dòng sông đời mạ).
Những câu thơ đã thay anh tạ lỗi với đấng sinh thành một khi chưa làm tròn chữ hiếu nhưng với Nguyễn Tiến Đạt dường như chưa mất đi mà “vẫn còn đây thương nhớ” với người thân và bè bạn.
Nguồn Quảng Trị: http://www.baoquangtri.vn/nguyen-tien-dat-van-con-day-thuong-nho-194401.htm