Nguyễn Trác 'gió vẫn trên đường'
'Gió vẫn trên đường' là nhan đề tập thơ được xuất bản gần đây nhất của nhà thơ Nguyễn Trác.
“Gió vẫn trên đường” cũng là nhan đề một bài thơ với hình ảnh của hai nhân vật chính: Người phụ nữ lao công và người thương binh bị hỏng mắt. Tiếng chổi tre và tiếng gậy tre trên đường gắn với mưu sinh hàng ngày của họ.
Kết bài thơ, tác giả viết:
“Những buổi sớm lặng đầy
những buổi trưa vang động
tiếng chổi tre vẫn quét trên đường
tiếng gậy tre vẫn gõ trên đường
và tôi nghe gió vẫn trên đường
vô thủy vô chung...”.
“Gió vẫn trên đường” là âm thanh của thực tại đang diễn ra, đồng thời thể hiện trạng thái của tác giả luôn lắng nghe và thấu hiểu những điều “vô thủy vô chung” trong thế giới này.
“Thơ góp cho đời một mùi hương”
Nhà thơ Nguyễn Trác sinh năm 1945, quê quán làng Nôm, Đại Đồng, Văn Lâm, Hưng Yên, sinh trưởng tại Hà Nội, nguyên Tổng biên tập Tạp chí Nhà văn. Ông từng là giáo viên dạy Toán, cựu chiến binh chiến trường B. Các tập thơ đã xuất bản của ông như: “Thành phố những ngôi sao biển” (1987), “Ở cuối dòng sông” (1991), “Chiếc thuyền đêm” (1995), “Sau tách cà phê” (2000), “Những giấc chiêm bao của cây” (2010), “Hoa trạng nguyên” (2015), “Gió vẫn trên đường” (2019)…
Tập thơ “Gió vẫn trên đường” được xuất bản khi Nguyễn Trác đã ở tuổi 75. Tập thơ đầu tay “Từ Đà Nẵng” gồm những sáng tác từ năm 1973 đến năm 1978.
Nửa thế kỷ làm thơ cũng là nửa thế kỷ ông lặng lẽ đồng hành cùng đất nước, nhân dân, với tiếng thơ nghiêng về biểu đạt những góc nhìn và tâm trạng cá nhân trong mối liên hệ với cộng đồng, với những chuyển biến của đời sống xã hội.
Tiếng thơ ấy mang dấu ấn của một thế hệ đã xác lập và theo đuổi các giá trị, hệ thẩm mỹ - tư tưởng của thời đại, một thời đại “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/Mà lòng phơi phới dậy tương lai” (Tố Hữu).
Thế nên, với người đọc quan tâm tới những hình thức biểu đạt tân kỳ, đương đại thì đừng cố tìm kiếm những dấu ấn ấy trong thơ Nguyễn Trác. Mỗi thế hệ có một quan niệm, một hệ quy chiếu riêng.
Huống chi những người như Nguyễn Trác không mấy quan tâm, hay chính xác hơn là không cố gắng để tỏ ra tân kỳ, lạ hóa. Ông chỉ cố gắng biểu đạt lòng mình, hồn mình, nhịp điệu nội tâm mình trong những bối cảnh riêng - chung khác nhau. “Thơ góp cho đời một mùi hương” – ông nghĩ về thơ nhẹ nhàng như thế.
Và nếu đã “góp cho đời một mùi hương” thì đó phải là thứ thơ mang tiếng nói tốt đẹp, ý nhị, sâu đằm. Một thức hương dịu nhẹ mà khó phai, với cảm xúc và năng lượng tích cực.
Ngay từ tập thơ “Từ Đà Nẵng”, Nguyễn Trác đã lưu ý kiếm tìm mùi hương ấy. Đến tập “Thành phố những ngôi sao biển”, những kiếm tìm rõ nét hơn, vững về thi tứ và hình tượng. Giọng điệu trong “Thành phố những ngôi sao biển” cũng vấn vương ở các tập thơ sau này của ông, nhẹ nhàng, thư thả, gợi mở ngẫm suy qua những trải nghiệm cá nhân khi được nhập vào dòng chảy cuộc sống lao động và nghệ thuật ở quanh mình.
Cũng trong tập thơ này, Nguyễn Trác có nhiều bài thơ duyên dáng về các tỉnh, thành miền Trung. Đây là những câu thơ tả về “Phố Hội”:
“Một bầu trời như lụa trải trên cao
Ngỡ yên tịnh mà nhiều xao động thế
Con bói cá xanh màu nước biển
Vút lên rồi mất hút giữa từng không”.
Đây là “Quy Nhơn”:
“Những người đàn ông từ đại dương vào ngực mang đầy gió mặn
Những người đàn bà gánh biển về vội vã trên vai
Cuộc đua ngựa vừa tan trong thành phố
Bầy ngựa đi thành một hàng dài”.
Đây, hình ảnh “Người bóc yến trên Cù Lao Chàm”:
“Anh đang ở giữa trời và đất
Giữa chim yến và biển xanh
Giữa cái sống và cái chết
Bên cô đơn bên nỗi nhọc nhằn”.
Những món ăn được làm từ tổ yến vô cùng bổ dưỡng, đồng thời cũng rất đắt đỏ. Người thưởng thức vốn chỉ quan tâm tới miếng ăn ấy giá trị thế nào, tấm tắc hoặc trầm trồ cùng nhau.
Mấy ai nghĩ đến, biết đến những người thợ phải leo giữa chon von núi đá để tìm kiếm tổ chim yến trong điều kiện bảo hộ vô cùng thô sơ những năm 80 thế kỷ trước. Nguyễn Trác thấu hiểu sự hiểm nguy ấy, nỗi cô đơn nhọc nhằn ấy.
Cũng vậy, khi ngồi uống chén rượu “với bạn Đồng Nai”, ông nghĩ đến những người đi mở đất:
“Thuở dấu chân voi ken đặc rừng già
Thuở cá sấu từng đàn thác dữ
Bông tràm vàng nở lẫn với hoang sơ”.
Biết ơn bao thế hệ cha ông, biết ơn nhân dân bình dị và quả cảm đã giữ gìn và dựng xây đất nước muôn đời – tình cảm ấy thường trực trong thơ Nguyễn Trác.
Nhân dân là biểu tượng của chữ Nhẫn, biểu tượng của lịch sử. Và cũng chính nhân dân sáng tạo giữ gìn văn hóa nghệ thuật, hồn cốt non sông gấm vóc. Trong bài thơ “Lưu dân”, nối tiếp ý thơ của Huỳnh Văn Nghệ: “Từ độ mang gươm đi mở cõi/ ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”, ông trải lòng:
“Nhưng nếu chỉ mang gươm làm sao thành Đất nước
thành lý ngựa ô, đờn ca tài tử
thành bánh tét, khăn rằn
thành ruộng đồng thẳng cánh cò bay”.
Ký ức trở về lặng lẽ
Nguyễn Trác thuộc thế hệ sinh ra, lớn lên trong những năm đất nước khó khăn, loạn lạc, bước vào đời với lý tưởng phụng sự, dâng hiến. Vậy nên, dù thơ ông không mang đậm dấu ấn chiến tranh và hậu chiến, nhưng không bao giờ ông quên những kỉ niệm chiến trường, những tháng năm lao khổ.
Kí ức vẫn trở về lặng lẽ và đau thắt khi soi chiếu với hiện thực, một hiện thực đất nước thời mở cửa với rất nhiều giá trị bị bung vỡ trong khi những giá trị mới chưa được xác lập vững vàng; lối sống hưởng thụ, chạy đua theo danh vọng vật chất khiến không ít người trở nên thực dụng, ích kỷ, lãng quên quá khứ. Vốn điềm đạm, hòa nhã cả trong đời lẫn trong thơ, song có lần Nguyễn Trác đã lên tiếng “Giải thích”:
“Cơm không đủ no
người tình không son phấn
chúng tôi lớn lên
cùng bom đạn Trường Sơn
niềm kiêu hãnh chạy dọc lưng Đất nước
chảy dọc thời thanh niên
mười chín đôi mươi trời xanh góa bụa
mười chín đôi mươi già như Lịch sử”.
Và ông vừa buồn vừa nhũn nhặn:
“Xin hãy để chúng tôi
được đôi lúc giận hờn phẫn chí
một tí thôi cho đỡ nao lòng
dù chúng tôi biết rất rõ rằng
cả thái độ chán chường
lẫn hoài nghi cuộc sống
có lẽ đều không hợp với Tương lai”.
Ông nhấn mạnh:
“Không ai có quyền vòi vĩnh gì Quá khứ”.
Ông xót xa:
“Nhưng hãy để chúng tôi
được một lần gục đầu vào Quá khứ
như gục đầu vào lòng mẹ ngày xưa
và khóc”.
Nếu giọt nước mắt này, tâm sự có phần chua chát này được Hiện tại thấu hiểu, thì có lẽ sẽ bớt đi nhiều lắm những vô cảm, vô ơn, bớt đi cảm giác xót xa như trong thơ của Phạm Đình Ân – người vào nghề báo, nghề thơ trước Nguyễn Trác mấy năm: “Rắc muối vào vô cảm/ Rắc muối vào vô ơn/ Xót tan lòng muối xát/ Hạt đổ vào vết thương”…
“Chúng tôi không còn quỹ thời gian nào khác/ để nói về cuộc sống hôm nay/… chúng tôi không còn một trái tim nào khác/ ngoài trái tim từng đập ở Trường Sơn”. Dẫu viết vậy, nhưng với một người luôn đặt lòng tin vào những điều tốt đẹp thì cũng không thể đứng ngoài hiện tại. Thế nên gió vẫn trên đường.
Thế nên mới chất vấn chính mình: “Nhưng chả lẽ không ngượng với cá hồi/ Không thẹn trước Nguyễn Thái Học/ Không xấu hổ vì lá biếc/ Quanh hồ Gươm đêm nay gió lạnh bao người”. Và ông chọn một thái độ trung dung dẫu có bất an, thỏa thuận với cuộc sống, chấp nhận những đổi thay mang tính quy luật của xã hội buổi giao thời. Ông ghi lại khoảnh khắc “ngộ” ra ấy khi đang ngắm nhìn “Liễu biếc”:
“Cuộc sống luôn đi trước những lo toan
Đi trước các nhà thơ
Đi trước cả các nhà chính trị
Thế hệ chúng ta vốn dễ bằng lòng và giản dị
Nhưng hôm nay kìa liễu biếc bên hồ”.
***
Có lẽ, may mắn nhất đời Nguyễn Trác là ông không phải lao vào chuyện cơm áo, hay đúng ra là tạng người như ông không biết làm kinh tế. Tiếp xúc với ông, thấy ông lúc nào cũng điềm đạm nhỏ nhẹ và rất mực tình cảm, chu đáo. Nhà có một cậu con trai, nên ông thương quý, chăm lo sâu sát cả khi con đã lập gia đình.
Những đứa cháu nội đem đến sự ấm áp cho tuổi già của vợ chồng ông. Vài năm nay, vì sức khỏe yếu nên ông ít ra ngoài, nhưng vẫn quan tâm đến đời sống thơ, và hào phóng lời khen trước những ý thơ hay. Về phần Nguyễn Trác, càng kiệm lời, ông càng có những bức tranh thơ đẹp. Đây là nét phác thảo ông già ngồi vẽ gốm gọi về cả trăm năm ký ức:
“Lọ gốm dựng nghiêng nghiêng
Chiều nghiêng nghiêng tre trúc
Khúc tỳ bà kỹ nữ
Bay nghiêng trong lòng thuyền
Tóc bạc nghiêng nghiêng đổ
Xuống một thời hoa niên”.
(Chiều Chu Đậu)
Nhạc và họa trong thơ Nguyễn Trác luôn hài hòa, gặp nhau trong những nét chạm nhẹ và thanh thoát, đặc biệt trong những sáng tác gắn với bối cảnh lịch sử, nghệ thuật, văn hóa. Đây là bức tượng vũ nữ Trà Kiệu được ông tái hiện bằng ngôn từ:
“Không thể có thực đâu
Dáng uốn cong của đôi tay vũ nữ
Không có thực
Cả đôi chân kia nữa
Cả tấm thân mang hình ngọn lửa
Cùng mơ hồ phi lý đến ngây thơ…”.
Trong giới văn chương hiện nay có nhiều nhà thơ, nhà văn cầm cọ. Có người về hưu cũng quay sang khám phá năng lực hội họa. Nguyễn Trác có lẽ chưa từng nảy ý tưởng mua cọ mua toan. Nhưng trong thơ ông ắp đầy hình khối và màu sắc, những bức tranh ngôn từ với bố cục vững, thanh thoát, có chiều sâu. Có bức tranh kiệm về hình ảnh mà vời vợi không gian, tâm trạng:
“Một người với chiếc ô hoa
Ngồi che cho một người xa cuối trời”.
(Bây giờ em đã về chưa)
Có bức như ảnh hưởng của trường phái hội họa lập thể:
“Bạn ngồi uống cà phê với sóng
Cô chủ quán như con cá trắng
Và mặt trời loài tảo lang thang
Người bán kem trên cát
Trẻ con như một đàn cá đỏ”.
(Một góc phố biển)
Nguyễn Trác có bài thơ “Mái nhà dưới bóng cây” viết cho con:
“Mái nhà dưới bóng cây
Cây dưới trời trong vắt
Trời xanh đêm và ngày”.
Thơ ca cũng là mái nhà thứ hai của ông. Mái nhà ấy nếu chúng ta ghé vào lúc mưa lúc nắng, lúc nhỡ độ đường sẽ được gặp ông chủ nhà ân cần niềm nở, luôn muốn chắt chiu dành tặng cuộc đời những câu thơ mang năng lượng bình an!
“Chất thơ của Nguyễn Trác là tiếng vang giữa những tương hợp nhẹ và tưởng như nhẹ của sự vật, thanh âm, sắc mầu. Cả những xung động mạnh nhất cũng trở nên u ẩn trong bóng mờ của cảm giác, trong nhịp kết của những thanh không và thanh bằng, và từ một con đường đầy lá ẩm, qua năm tháng, anh rủ bạn tới những dự cảm, phấp phỏng chia sẻ” - Nhà thơ Nguyễn Lương Ngọc.
Nguồn GD&TĐ: https://giaoducthoidai.vn/nguyen-trac-gio-van-tren-duong-post665085.html