Nhà báo–nhà văn Nguyễn Thi: Người con Nam Định đã hóa thân cho Tổ quốc

Trong sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã có hàng ngàn nhà báo chiến sĩ có mặt trên các mặt trận của cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc. Hơn 400 nhà báo đã hiến dâng tuổi thanh xuân cho Tổ quốc, trong đó có những người con của quê hương Nam Định.

Nhà báo, nhà văn, liệt sĩ Nguyễn Ngọc Tấn.

Nhà báo, nhà văn, liệt sĩ Nguyễn Ngọc Tấn.

Nhà báo - nhà văn - liệt sĩ Nguyễn Ngọc Tấn tên khai sinh là Nguyễn Hoàng Ca, bút danh Nguyễn Thi, sinh ngày 15-5-1928, tại xã Quần Phương thượng, huyện Hải Hậu, thuộc cơ quan Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng.

Năm 1943, ông được người anh trai đã đưa Nguyễn Ngọc Tấn vào Sài Gòn ăn học. Nhưng do đời sống khó khăn, không muốn thành gánh nặng cho anh, Tấn đi làm rồi tự học. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, anh tham gia mọi công việc được cách mạng giao với tất cả hăng say, nồng nhiệt của tuổi trẻ, làm các nhiệm vụ bảo vệ và khi cần thì chiến đấu. Đối với anh đó thật sự là những ngày hạnh phúc. Ngày 23 tháng 9 năm 1945, giặc Pháp gây hấn trở lại, anh thanh niên 18 tuổi Nguyễn Ngọc Tấn gia nhập Trung đội lưu động cảm tử Nguyễn Bình, khi thì làm liên lạc, khi làm trinh sát, khi tham gia chiến đấu ở vùng Gia Định.

Năm 1947, trung đội cảm tử nhập vào Chi đội 1, Tiểu đoàn 901, tác chiến vùng Tân Khánh - Thủ Dầu Một, ở Lái Thiêu, Thủ Thừa. Anh trở thành Đảng viên chính thức ngày 25-9-1947.

Tháng 12-1948, anh được điều về làm cán bộ Tuyên văn Ban chỉ huy tiểu đoàn. Anh lo việc thông tin, cổ động, làm bích báo, viết bài cho báo của đơn vị, của tỉnh, của quân Khu. Ngoài ra, anh còn vẽ tranh cho Đoàn văn hóa kháng chiến, tranh cổ động, tranh triển lãm, làm thơ ngụy vận... Tháng 1-1951, anh được nhận giải thưởng Văn nghệ Cửu Long. Cũng thời gian này anh còn xuất bản tập thơ Hương đồng nội.

Đối với anh, khi phải công tác xa đơn vị cơ sở là một nỗi khổ tâm lớn. Anh thường tâm niệm: "Xa họ, không thế nào viết được... Chỉ có anh em đội viên mới cho mình nhiều đề tài mà thôi".

Hòa bình lập lại, theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, anh cùng đơn vị tập kết ra Bắc. Còn vợ được tổ chức bố trí ở lại, trở về hoạt động trong nội thành Sài Gòn. Cô con gái Trang Thu sinh đúng ngày con tàu đưa anh tập kết cập bến miền Bắc.

Sau một thời gian làm cán bộ tuyên huấn ở Tiểu đoàn 302 rồi trợ lý văn nghệ Sư đoàn 330, đến tháng 12-1956 anh được điều về Tạp chí Văn nghệ quân đội, cơ quan tập hợp và đào tạo các nhà văn, nhà báo mặc áo lính.

Trong những năm ấy, anh cảm thấy sâu sắc sự gắn bó máu thịt với miền Nam, với Nam bộ. Hầu hết sáng tác của anh - thơ, bút ký, ký sự, bình luận và chủ yếu là truyện ngắn trong năm tháng này là viết về những người con tập kết. Sau được tập hợp in trong hai tập truyện ngắn Trăng sáng (1960) và Đôi bạn (1962). Trăng sáng và Đôi bạn là những trang đẹp trong văn học Việt Nam vì nó nhuần nhuyễn tình cảm thiết tha, trong sáng, thấm đượm nỗi đau lịch sử bi hùng của quê hương đất nước.

Có lẽ chính từ nỗi da diết ấy, một lần nữa, anh từ biệt quê hương, từ biệt những người thân, từ biệt người vợ trẻ cùng đứa con trai mới 6 tháng đế trở lại với chiến trường quen thuộc, mảnh đất đã nuôi anh thành người lính và thành người nghệ sĩ.

Đó là vào giữa tháng 5-1962, anh cùng nhà văn Nguyên Ngọc lên đường về Nam. Nhà văn Nguyên Ngọc trở về khu 5, còn anh đi thẳng vào Nam Bộ. Con đường Trường Sơn đối với lớp người đi đầu tiên chưa nhiều đạn bom từ trên trời, nhưng đầy khó khăn và hiểm nguy từ mặt đất.

Trở lại chiến trường lần này, anh đã là một nhà báo, nhà văn chuyên nghiệp, có những sáng tác được nhiều người yêu mến. Nhưng đối với anh, một người lính, một người Đảng viên, mọi nhiệm vụ cuộc chiến đấu yêu cầu, mọi công việc có thể làm để phục vụ cuộc chiến đấu, đều được anh dốc hết tâm sức để hoàn thành. Tờ báo Quân giải phóng ra đều kỳ và Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng vừa ra số đầu tiên đón anh như đón một người hỗ trợ đắc lực, thêm một cây bút chủ lực vào đội ngũ viết văn, viết báo.

Anh vừa viết bài và viết tin, làm thơ và làm ca dao, khi cần viết cả vè kể chuyện chiến đấu, vẽ bìa và minh họa, viết bài hát, góp ý cho biên đạo múa và cả dạy múa, sáng tác các tiết mục cho liên hoan văn nghệ cơ quan và làm diễn viên.

Đó là chưa kể một khối lượng công việc âm thầm của một người biên tập như gợi ý viết bài, chọn bài, sửa chữa bài vở - bao giờ anh cũng trực tiếp trao đổi với tác giả hay thư từ cho từng người khi cần đề nghị sửa chữa. Một cách anh giúp đỡ - bồi dưỡng, đào tạo những người viết mới - một công việc mà anh làm rất có ý thức và làm với tất cả tấm lòng chân thành nhất.

Vào tới Nam Bộ cuối năm 1962, sang đầu năm 1963, sau chiến thắng Ấp Bắc vang dội, anh về Bến Tre quê hương của Đồng khởi. Phải sau hai chuyến đi tìm hiểu lại chiến trường, con người, cuộc chiến đấu, anh mới bắt tay vào viết những tác phẩm đầu tiên của giai đoạn sáng tác mới này. Để nhớ về người con trai đang ở miền Bắc, anh lấy tên con Nguyễn Thi làm bút danh cho những sáng tác mới. Anh tiếp tục cho ra các bản tin, ghi chép ngắn, ký, thể loại văn học báo chí có sức phản ánh nhanh nhạy hiện thực, bắt kịp cuộc sống đang sôi động từng ngày từng giờ ở miền Nam lúc này. Anh từng viết về các Đại hội Anh hùng miền Nam lần thứ I (1965), lần thứ II (1967), về các anh hùng và chiến sĩ thi đua điển hình nổi bật như chị Út Tịch, Nguyễn Thị Hạnh... Phần lớn được tập hợp in trong tập Truyện và ký (Nhà xuất bản Văn nghệ Giải phóng).

Một cuốn tiểu thuyết anh bắt đầu khá sớm nhưng anh không có điều kiện tiếp tục viết, đó là cuốn sau này được những người biên tập ở tòa soạn Tạp chí Văn nghệ quân đội đặt tên là “Ở xã Trung Nghĩa”, viết ngay sau chuyến về Mỹ Tho năm 1963. Cũng trong thời gian đó, anh còn chuẩn bị tài liệu cho hai cuốn tiểu thuyết khác, mà bản thảo còn lại mới chỉ là đề cương viết lần đầu và chưa có phần kết thúc. Đó là “Sen trong đồng” và “Cô gái đất Ba Dừa” (sau in trong Tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1970).

Đọc lại các sáng tác của anh trong giai đoạn này, kể cả những sáng tác chưa in, điều đặc biệt xúc động, là mặc dù trong cuộc sống riêng, không phải lúc nào anh cũng gặp may mắn và tình thế cách mạng không phải bao giờ cũng thuận lợi, nhưng từ những trang viết của anh luôn tỏa ra ánh sáng của niềm tin bất diệt vào cách mạng, vào quần chúng, vào sự tất thắng của những điều nhân nghĩa nhưng rất nồng hậu, ấm áp tình người.

Sau Đại hội Anh hùng và chiến sĩ thi đua toàn miền Nam lần thứ II, anh lấy tài liệu và bắt đầu viết tập ký “Ước mơ của đất” về nữ anh hùng Nguyễn Thị Hạnh. Viết xong tập I, anh đã xuống Phân khu 2 ở Long An và bám sát các đơn vị ở đây để kịp dự Tổng công kích đợt 2 vào mùa hè năm 1968. Trong bộ bà ba đen của cán bộ quân khu Giải phóng, khẩu súng lục P.38 tùy thân, chiếc bi đông cháy đen, anh bám sát các đơn vị chiến đấu trực tiếp để đi sâu vào nội đô.

Không ngờ, chuyến đi này lại là chuyến thực tế cuối cùng của Nguyễn Thi. Ngày 24 tháng 5 năm 1968, anh đã ngã xuống tại khu vực ngã ba Tham Lương phía Tây Bắc Sài Gòn khi đơn vị từ đường Minh Phụng lui quân ra. Trước sức phản kích quyết liệt của bộ binh, xe tăng, pháo binh và trực thăng địch, nhà báo, nhà văn đã cùng Quân giải phóng đã chiến đấu giành giật từng con đường, góc phố. Hơn thế anh còn chiến đấu trong cương vị một cán bộ chỉ huy, cùng đồng đội đánh lui nhiều đợt phản kích của địch. Với khẩu AK trong tay, anh đã bắn đến viên đạn cuối cùng. Bị thương vì một mảnh rốc-két ghim vào ngực, anh chỉ kịp nói lại cho người cán bộ cuối cùng của đơn vị, tên mình và nhờ anh mang về cơ quan chiếc bòng của mình. Các đồng chí ở Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng đã nhận được chiếc bòng trong đó có bản thảo phần I tập ký “Ước mơ của đất”, ba chương của tiểu thuyết “Ở xã Trung Nghĩa” và một tác phẩm ký viết dở 16 trang.

Cái chết anh dũng của anh trong tư thế cầm súng trên thành phố mang tên Bác, cùng với thời gian, hiện lên như một biểu trưng giàu ý nghĩa, nói với hậu thế về tư thế cùng những đóng góp nhà báo - nhà văn chiến sỹ trong cuộc chiến đấu giành độc lập của dân tộc. Các phẩm báo chí, văn học cũng như cuộc đời Nguyễn Ngọc Tấn - Nguyễn Thi là một trang đẹp trong nền báo chí, văn học Việt Nam hiện đại. Tên của nhà báo, nhà văn đã được đặt chu một con đường thuộc quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

Kỷ niệm trọng thể 100 năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam, được làm báo giữa đất nước thanh bình, xin kính cẩn nghiêng mình trước những tấm gương nhà báo, nhà văn anh hùng đã xả thân vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Các anh chị mãi mãi là những tấm gương sáng ngời cho lớp nhà báo hôm nay noi theo!

Lã Quý Hưng

Nguồn Nam Định: https://baonamdinh.vn/dat-nuoc-con-nguoi/202506/nha-baonha-van-nguyen-thinguoi-con-nam-dinh-da-hoa-than-cho-to-quoc-4061dc3/