Nhà giáo nhân dân, GS-TS. Trần Doãn Sơn: Giữ 'hồn quê' qua từng sáng chế
Mỗi sáng chế của Nhà giáo nhân dân, GS-TS. Trần Doãn Sơn trong 2 thập niên qua là một câu chuyện về tình yêu quê hương, khát vọng vươn xa và sứ mệnh giữ gìn 'hồn quê' của người Việt trong thời hội nhập.

GS-TS. Trần Doãn Sơn được vinh danh tại Đại hội Thi đua yêu nước Đại học Quốc gia TP.HCM lần thứ VI năm 2025
Những chiếc máy kể chuyện nông sản Việt
Sinh ra tại Hà Tĩnh - vùng đất nông nghiệp khắc nghiệt, GS-TS. Trần Doãn Sơn sớm thấu hiểu nỗi nhọc nhằn của nông dân. Là một quốc gia phát triển từ nông nghiệp, Việt Nam sở hữu các sản phẩm chủ lực như gạo, cà phê, hạt điều, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Tuy nhiên, công nghệ chế biến lạc hậu khiến nhiều sản phẩm chỉ được xuất khẩu ở dạng thô, làm giảm giá trị đặc sản quê hương.
Trăn trở trước thực trạng trên, ông quyết tâm nghiên cứu và phát triển các thiết bị hiện đại giúp nâng cao chất lượng nông sản Việt, đồng thời bảo tồn hương vị truyền thống và đưa chúng vươn ra thế giới. “Tôi muốn nông dân Việt Nam không chỉ bán nguyên liệu thô, mà còn tự hào với những sản phẩm chế biến đạt các tiêu chí khắt khe của thế giới”, ông chia sẻ.
Nhà giáo nhân dân, GS-TS. Trần Doãn Sơn đã được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cho Cụm công trình Nghiên cứu đổi mới, phát triển công nghệ và thiết bị chế biến lương thực - thực phẩm và nông sản Việt Nam năm 2021. Cụm công trình này là kết quả hơn 20 năm nghiên cứu, gồm 8 công trình chính, thực hiện 5 đề tài cấp nhà nước và 9 bằng sáng chế.
Hành trình nghiên cứu của GS-TS. Trần Doãn Sơn bắt đầu từ hạt điều, với khát vọng đưa sản phẩm của Việt Nam cạnh tranh với sản phẩm của Ấn Độ, mang ngoại tệ về cho đất nước. Năm 1990 - 2003, ông ghi dấu ấn với công nghệ chế biến hạt điều bằng phương pháp chao dầu (xuất xứ từ Ấn Độ). Năm 1998, lần đầu tiên ông chuyển giao 3 dây chuyền chế biến hạt điều cho đối tác tại Mozambique, đánh dấu bước ngoặt trong hành trình nâng tầm nông sản Việt.
Tuy nhiên, nhận thấy phương pháp chao dầu gây ô nhiễm môi trường, ông tiếp tục nghiên cứu để đổi mới công nghệ và cho ra đời thiết bị cùng quy trình hấp hạt điều bằng hơi bão hòa. Công nghệ này loại bỏ công đoạn bóc tách vỏ cứng chứa axit độc hại, giảm khí thải và công việc nặng nhọc cho công nhân.
Gần 200 dây chuyền đồng bộ đã được chuyển giao trong và ngoài nước góp phần đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu điều nhân lớn nhất thế giới. Ông còn hỗ trợ xây dựng các nhà máy chế biến điều tự động cho châu Phi và Ấn Độ, mang lại niềm tự hào cho ngành nông nghiệp Việt.
Danh tiếng về sản xuất máy nông nghiệp của GS-TS. Trần Doãn Sơn khiến một số doanh nghiệp cà phê lớn như Trung Nguyên và Thu Hà tìm đến đặt hàng cải tiến máy chế biến để giữ trọn hương vị đậm đà của cà phê Tây Nguyên. Qua tìm hiểu, ông được biết, Trung Nguyên sử dụng máy rang xay cà phê của Probat (Italy) với chi phí đầu tư khá cao. Ông đã cùng Công ty cải tiến thiết bị này, tạo ra một phiên bản mới với nhiều ưu điểm vượt trội và được cấp bằng sáng chế.
Sáng chế đó giúp các doanh nghiệp sản xuất cà phê như Trung Nguyên chủ động về công nghệ, gia tăng sản lượng và góp phần đưa Việt Nam trở thành quốc gia xuất khẩu cà phê lớn thứ hai thế giới, chỉ sau Brazil. “Cà phê Việt không chỉ là đồ uống, mà là văn hóa. Tôi muốn máy chế biến cà phê của mình không chỉ tăng sản lượng, mà phải giữ được cái hồn ấy”, ông tâm sự.
Ngày 28/8/2024, GS-TS. Trần Doãn Sơn vinh dự nằm trong số 135 trí thức khoa học và công nghệ tiêu biểu năm 2024, do Liên hiệp Các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trao tặng. Ông được ghi nhận với các thành tích 47 năm cống hiến, 11 bằng sáng chế và giải pháp hữu ích, 13 đề tài nghiên cứu, 37 bài báo khoa học, cùng việc chuyển giao hơn 1.000 dây chuyền chế biến hạt điều, 500 thiết bị chế biến cà phê và hơn 200 máy móc thiết bị chế biến lương thực - thực phẩm cho các đơn vị trong và ngoài nước.
Sau thành công ấy, GS-TS. Trần Doãn Sơn tiếp tục chinh phục những món ăn biểu tượng của Việt Nam. Ông nghiên cứu và phát triển thiết bị sản xuất bún với cơ cấu ép đùn bột nước, cho phép làm chín sợi bún từ từ ở nhiệt độ tăng dần nhờ trục vít và xi-lanh đặc biệt.
Năm 2005, ông sáng chế máy làm bánh phở tươi với quy trình khép kín, tích hợp từ xay nhuyễn, lọc tạp chất, cán mỏng, hấp, đến cắt sợi. Thiết bị giúp rút ngắn thời gian chế biến từ 12 tiếng xuống dưới 2 tiếng, đảm bảo vệ sinh và chất lượng. “Phở cũng là món ăn biểu tượng của Việt Nam. Bánh phở không tươi làm món ăn mất đi một nửa sức hấp dẫn”, ông nhấn mạnh.
Ông còn được cấp 3 bằng sáng chế cho máy làm bánh tráng bía với năng suất gấp 10 lần lao động thủ công, bánh tráng rế dùng robot và các thiết bị chế biến thực phẩm khác. Hơn 20 năm, ông đã phát triển nhiều dây chuyền tự động sản xuất bánh tráng gạo, bánh pía, bánh rế, cùng các thiết bị mini cho phở tươi, bánh cuốn, mì quảng và một thiết bị đa năng sản xuất bún, bánh hỏi, bánh canh, phở, bánh cuốn, mì quảng…
Trong 11 sáng chế, GS-TS. Trần Doãn Sơn cho biết, ông tâm đắc nhất với máy sản xuất bánh tráng truyền thống, giúp nâng cao giá trị hạt gạo Việt. Mọi chuyện bắt đầu khi TS. Nguyễn Thiện Nhân, lúc đó là Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM, đưa ông lên Củ Chi. Chứng kiến hàng chục container bánh tráng xuất khẩu bị trả về do không đạt tiêu chuẩn vệ sinh, ông không khỏi xót xa.
“Nông dân tráng bánh thủ công tốn thời gian, công sức, mà vẫn không đáp ứng được thị trường quốc tế. Tôi quyết tâm tạo ra một chiếc máy sản xuất bánh tráng có thể giữ được hương vị truyền thống mà đạt chuẩn toàn cầu”, ông kể.
Trong căn nhà cũ kiêm xưởng sản xuất, ông mô phỏng thao tác tráng bánh thủ công và chuyển hóa thành các chuyển động cơ khí đơn giản, nhưng chính xác, nhẹ nhàng, khéo léo như tay người thợ, đảm bảo bánh mịn màng, không rách. Sau gần 2 năm vật vã điều chỉnh, ông đã hoàn thiện dây chuyền tự động sản xuất bánh tráng với năng suất cao và chất lượng đồng đều.
Bốn năm sau, máy sản xuất bánh tráng truyền thống của ông được cấp bằng sáng chế, mở ra thời kỳ mới cho chế biến sản phẩm từ gạo. Hàng trăm thiết bị bánh tráng tự động đã ra đời, đóng góp lớn vào giá trị gần 200 triệu USD xuất khẩu bánh tráng năm 2024, mang lại niềm tự hào cho nông dân Củ Chi và miền Tây.
Các sáng chế của GS-TS. Trần Doãn Sơn đã được chuyển giao rộng rãi cho hơn 1.000 cơ sở chế biến hạt điều trong và ngoài nước, 500 thiết bị chế biến cà phê, hơn 200 dây chuyền chế biến thực phẩm như phở, bánh tráng gạo, bánh rế tại các nhà hàng trong và ngoài nước.
Gian nan chinh phục thế giới
Việc đưa các sáng chế ra thế giới là một hành trình đầy thử thách. Khi tiếp cận những thị trường khó tính như Nhật Bản, Đức hay Mỹ, sản phẩm phải đối mặt với hàng loạt tiêu chuẩn khắt khe về vật liệu đạt chuẩn, linh kiện có nguồn gốc rõ ràng, quy trình sản xuất đảm bảo vệ sinh và thân thiện với môi trường... Mỗi thị trường lại đặt ra những yêu cầu riêng, châu Âu đòi hỏi vệ sinh đồng bộ, Nhật Bản kiểm tra kỹ lưỡng nguồn gốc linh kiện, Israel yêu cầu quy trình khép kín.
Để thuyết phục đối tác, ông mời họ sang Việt Nam trực tiếp trải nghiệm và kiểm chứng chất lượng máy móc. Ông cũng không ngừng điều chỉnh các sáng chế để đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Các sáng chế của ông đã có mặt tại nhiều quốc gia như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Anh, Lào, Singapore, Thụy Điển…
Điều đặc biệt là những chiếc máy xuất khẩu không chỉ mang công nghệ Việt ra thế giới. “Máy làm phở cần gạo cũ đặc biệt, máy rang cà phê cần hạt cà phê Việt Nam. Khi các nước nhập máy, họ cũng nhập nguyên liệu từ ta, giúp nông dân có thêm thu nhập”, ông chia sẻ.
Ở tuổi ngoài thất thập, GS-TS. Trần Doãn Sơn không trực tiếp sản xuất hay kinh doanh, mà tập trung chuyển giao công nghệ cho thế hệ trẻ - những doanh nghiệp tiếp nối sứ mệnh đưa ẩm thực và công nghệ Việt ra thế giới. “Tôi chỉ phát minh và hướng dẫn họ cải tiến, đưa sản phẩm ra thị trường quốc tế, mang ngoại tệ về nước. Họ không chỉ bán máy, mà còn giới thiệu nguyên liệu Việt, từ gạo đến cà phê, tạo nên chuỗi giá trị bền vững”, ông nói.
Năm 2008, ông nhận Huân chương Lao động hạng Ba và 2 bằng khen của Thủ tướng Chính phủ. Trong hơn 45 năm giảng dạy, ông Sơn cùng với cựu sinh viên chuyển giao hơn 450 dây chuyền thiết bị trong và ngoài nước. Đây là những công trình tập trung vào công nghệ và chế biến các nguyên liệu chủ lực của Việt Nam như gạo, cà phê, hạt điều. Những nghiên cứu của ông và cộng sự có nhiều đóng góp cho đất nước và lan tỏa lợi ích xã hội.
Ông nhấn mạnh vai trò của khoa học công nghệ trong việc bảo tồn bản sắc và nâng tầm ẩm thực Việt. Đánh giá cao Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, nhưng ông lưu ý rằng, chuyển đổi số phải thực chất, tránh chạy theo phong trào.
Ông cũng thẳng thắn chỉ ra thực trạng nghiên cứu khoa học tại Việt Nam khi nhiều công trình chưa gắn với thực tiễn, chưa giải quyết nhu cầu cụ thể. Theo ông, nhà khoa học cần hiểu doanh nghiệp, nắm bắt thị trường và gắn nghiên cứu với thực tế.
Ông đề xuất cải tiến cơ chế tài chính, đơn giản hóa việc cấp vốn để các nhà khoa học không bỏ lỡ cơ hội. “Tiền là yếu tố quan trọng. Cơ chế cấp vốn chậm sẽ làm mất đi những cơ hội quý giá”, ông nhấn mạnh.
Đồng thời, ông kêu gọi các nhà khoa học trẻ chủ động tiếp cận doanh nghiệp, lắng nghe nhu cầu thực tế. Đừng chỉ ngồi nghĩ ý tưởng, hãy đi thực địa, làm việc với doanh nghiệp, thử nghiệm sản phẩm cùng họ. Chỉ có như vậy, nghiên cứu mới tạo ra giá trị thực sự.
Hành trình của GS-TS. Trần Doãn Sơn không chỉ là câu chuyện về những chiếc máy, mà còn là khát vọng đưa Việt Nam vươn xa, khẳng định vị thế trên bản đồ thế giới. Ông đã viết nên câu chuyện về một nhà khoa học Việt Nam dùng trí tuệ và tâm huyết để giữ gìn “hồn quê” trong từng sản phẩm, bảo tồn bản sắc và nâng tầm đất nước.