Nhà văn Ngô Thảo, người hiền gom dĩ vãng

Tôi biết nhà văn Ngô Thảo đã lâu. Không kể những lần gặp ở Hà Nội, lần nào về thăm quê ở Vĩnh Linh ông cũng nhắn tin, gặp gỡ. Lần đầu gặp, ông tặng tôi cuốn sách Bốn nhà văn nhà số 4 (NXB Hội Nhà văn); sau đó tôi đọc thêm những cuốn sách phê bình văn học tiêu biểu của ông, như: 'Đời người, đời văn', 'Văn học với đời sống, đời sống văn học', 'Văn học về người lính', 'Thao thức với phần đời chiến trận', 'Thư chiến trường', 'Dĩ vãng phía trước'… Ở bài viết này, tôi chỉ đề cập đến những tác phẩm phê bình văn học tiêu biểu của ông, nhất là ông viết về các nhà văn đã từng sống và viết trên mảnh đất Quảng Trị. Đó cũng là một phần trong ký ức của ông-nhà văn, nhà phê bình văn học được mệnh danh là 'người hiền gom dĩ vãng'.

Từ những trang viết của Ngô Thảo, bạn đọc tìm thấy nhiều tư liệu về vùng đất, con người, sử liệu; lần theo bước chân của những nhà văn mặc áo lính, cùng các binh đoàn vượt qua bao đồn bốt, hàng rào kẽm gai, lưỡi lê họng súng của đối phương, từ đảo Cồn Cỏ “chiến hạm không thể đánh chìm” đến vùng đất nóng bỏng Khe Sanh từng làm đau đầu những bộ óc ở Lầu Năm góc; hay đường Trường Sơn huyền thoại, chiến trường Trị Thiên khói lửa đến Tây Nguyên bất khuất, Sài Gòn ngày toàn thắng, khi giang san quy về một mối, toàn dân bắt tay xây dựng cuộc sống mới trong hòa bình.

Sáng tác đầu tay của Ngô Thảo là tập sách “Từ cuộc đời chiến sĩ” (1978), thể hiện tình cảm yêu thương đồng đội, người thân, những người dân từng gặp trên đường hành quân thời ông rời Viện Văn học lên đường tham gia kháng chiến chống Mỹ ở chiến trường Trị Thiên.

Nhà văn Ngô Thảo - Ảnh: T.L

Nhà văn Ngô Thảo - Ảnh: T.L

Trong số “Bốn nhà văn nhà số 4” mà Ngô Thảo đã phác thảo, có một sự gặp gỡ chung trong khai thác đề tài ở cùng một vùng đất. Nếu như nhà văn Nguyễn Thi từ Hà Nội đi thẳng vào chiến trường Nam bộ, thì ba nhà văn còn lại đều có những chuyến đi dài ngày ở chiến trường Quảng Trị và đã có những tiểu thuyết ấn tượng về mảnh đất này.

Ngô Thảo cảm nhận các tác phẩm của nhà văn Nguyễn Khải, như: “Họ sống và chiến đấu”, “Ra đảo”, “Chiến sĩ” gần như viết tại những nơi tác giả có mặt, đó là đảo Cồn Cỏ, xã Vĩnh Giang (cũ), nơi trực tiếp tiếp tế cho Cồn Cỏ, Tà Cơn, Khe Sanh, Tây Quảng Trị. Chủ đề các tác phẩm của Nguyễn Khải rất phong phú.

Đó là cuộc sống, chiến đấu của bộ đội trong những năm kháng chiến chống Mỹ, về nông thôn trong quá trình xây dựng cuộc sống mới, về những vấn đề chính trị-xã hội có tính thời sự và đời sống của con người trước những biến động phức tạp của thời cuộc. Nhà văn Nguyễn Khải có năng lực phân tích tâm lí nhân vật sắc sảo, lý tính. Trong số các tác phẩm của ông, tác phẩm “Mùa lạc”, “Một người Hà Nội” được sử dụng trong sách giáo khoa phổ thông trung học nhiều năm. Nhà văn Nguyễn Khải được phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2000.

Còn đối với nhà văn Nguyễn Minh Châu khi viết “Dấu chân người lính”, “Cỏ lau” và nhiều truyện khác là lúc ông đang bám mảnh đất Quảng Trị. Nhà thơ Xuân Sách, người cùng đi chiến trường kể lại, trong một lần Nguyễn Minh Châu hẹn gặp một đại đội trưởng nổi tiếng gan dạ để khai thác tài liệu. Lúc hai người đang trò chuyện thì một quả rocket từ OV10 bất ngờ phóng tới. Người đại đội trưởng nhanh tay đẩy nhà văn xuống hầm. Khi Nguyễn Minh Châu gượng đứng lên, thấy máu đầy người, mới biết người cán bộ đó đã đỡ mảnh rocket cho mình. Những trang viết từ sự trải nghiệm như thế thấm đẫm tình người trong chiến tranh.

Một số tác phẩm của nhà văn Ngô Thảo - Ảnh: T.N

Một số tác phẩm của nhà văn Ngô Thảo - Ảnh: T.N

Với những sáng tác thời gian sau này, có thể thấy nhà văn Nguyễn Minh Châu vẫn giữ được sức làm việc cần cù, hiệu quả, tác phẩm mang tới cho bạn đọc niềm tin vào con người và một thái độ sống có trách nhiệm. Ngô Thảo cho rằng, thấm đượm trong các trang viết của Nguyễn Minh Châu là một nỗi đau nhân thế triền miên, mênh mông và dai dẳng.

Có lần ông thổ lộ rằng không hiểu vì sao anh lại gắn bó kỳ lạ với mảnh đất Quảng Trị: “Cái mảnh đất Quảng Trị gần như tôi si mê nó, hình như trong con người tôi và mảnh đất ấy có chung một sợi dây thần kinh mà hễ cứ chạm đến đấy thì cả con người tôi rung lên. Tôi đã gắn bó với nó-cái vùng quê hương của chiến tranh và khổ ải ấy-hơn cả với quê mình.

Có lẽ tôi nhìn thấy từ lâu ở đấy cái chỗ biểu đạt rõ nhất đời sống con người của đất này chăng”. Rất tiếc giữa những bản thảo dở dang mà Nguyễn Minh Châu để lại, có những trang phác thảo đề cương cuốn tiểu thuyết “Chân trời vỏ đạn” viết về cuộc chiến đấu 81 ngày đêm bảo vệ Thành Cổ Quảng Trị năm 1972 chưa thực hiện được thì nhà văn đã ra đi.

Trong các tiểu thuyết viết về chiến tranh, cùng với tiểu thuyết “Vùng sáng hỏa châu”, tiểu thuyết “Dưới đám mây màu cánh vạc” gồm 2 tập, 800 trang, nhà văn Thu Bồn viết về cuộc chiến tranh ở Quảng Trị vào hồi ác liệt năm 1972. “Trong tiểu thuyết này, Thu Bồn đã có những trang viết hào hùng về cuộc đời ngắn ngủi mà trải nhiều thử thách và lập nên kỳ tích anh hùng của Trần Thị Tâm, người đội trưởng du kích kiên cường, gan góc của đội du kích Mỹ Thủy”, Ngô Thảo nhấn mạnh. Theo Ngô Thảo, nhân vật Trần Thị Tâm được thể hiện một cách hấp dẫn về phẩm chất người anh hùng, vừa có sức sống, một nghị lực phi thường, vừa rất gần gũi, rất đáng yêu. Phải chăng đó vẫn là điều chúng ta hằng mong đợi đối với những tác phẩm viết về anh hùng?

Sau khi tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Hà Nội, Ngô Thảo được phân công về làm việc ở Tổ Ngôn ngữ, Viện Văn học. Công việc hằng ngày của ông là viết phích chuẩn bị tư liệu làm Từ điển tiếng Việt, một công việc khoa học theo ông là khá buồn chán.

Từ ngày 5/8/1964, đế quốc Mỹ bắt đầu ném bom miền Bắc, cuộc chiến tranh lan ra cả nước. Phong trào thanh niên tình nguyện ra chiến trường rất sôi nổi. Ngô Thảo thuộc lớp tốt nghiệp đại học đầu tiên được gọi nhập ngũ. Sau 3 năm huấn luyện, ông trải qua nhiều công việc, từ binh nhì, khi vào chiến đấu đã là chuẩn úy, trung đội trưởng trinh sát...

Năm 1971, Ngô Thảo được cử đi học ở Học viện Chính trị và được điều về Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Tại đây, ông trở thành cây bút phê bình văn học với nhiều đóng góp quan trọng. Sau 14 năm ở đơn vị này (từ 1971-1985), Ngô Thảo lại tự làm mới mình bằng cách chuyển sang lĩnh vực sân khấu. Ở địa hạt này, Ngô Thảo có nhiều đóng góp với vai trò là Thường trực Ban Thư ký, rồi Phó Tổng thư ký Thường trực Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam, kiêm Tổng Biên tập Tạp chí Sân khấu, Giám đốc NXB Sân khấu. Ở góc độ văn chương mà nói, dù công tác ở nhiều nơi, nhưng có lẽ những năm tháng ở tạp chí Văn nghệ Quân đội, Ngô Thảo có nhiều thành tựu về nghiệp văn.

Như đã đề cập, là nhà phê bình văn học chuyên viết về những nhà văn quân đội, ngòi bút của Ngô Thảo thể hiện sự dày công thu thập tư liệu, quan sát, ghi chép một cách cẩn trọng, nâng niu. Văn phong những bài phê bình, tiểu luận của ông được thể hiện trong sáng, gần gũi đời thường. Qua lăng kính của Ngô Thảo đã đem đến cho bạn đọc cảm giác thêm yêu quý, kính trọng những nhà văn mặc áo lính và không khí sáng tạo văn học sôi nổi của một thời kháng chiến gian lao nhưng hào hùng.

Ngày ấy, tay cầm súng tay cầm bút, họ đã đi vào cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc với sự cống hiến, hy sinh vô điều kiện. Trong số họ, phần nhiều đã về cõi thiên thu, nhưng tác phẩm của họ vẫn còn ở lại với đời sống văn học hôm nay và mai sau. Ngô Thảo là một trong những nhà nghiên cứu phê bình văn học sắc sảo, chân tình, thẳng thắn, khách quan, sống và viết hết mình vì đồng đội, góp phần làm cho tác phẩm của thế hệ nhà văn mặc áo lính ngày ấy trở nên bất tử. Học giả Đào Duy Anh từng nói: “Cho hay tất cả đều trôi nổi/Còn với non sông một chữ Tình”. Con người và tác phẩm Ngô Thảo mang đậm chữ Tình đó.

Minh Tứ

Nguồn Quảng Trị: https://baoquangtri.vn/van-hoa/202509/nha-van-ngo-thao-nguoi-hien-gom-di-vang-571614c/