Nhà văn Trần Thùy Mai: 'Nhiều bé một, hai tuổi thích sách hơn đồ chơi'
'Nhìn một bé chưa biết nói lẫm chẫm lấy sách ra dí vào tay cha mẹ, đòi cùng xem với mình, ta sẽ thấy tin tưởng với tương lai của nghề làm sách', nhà văn Trần Thùy Mai chia sẻ.
Văn hóa đọc hiện nay đã bắt đầu được chú trọng hơn trong xã hội và đại chúng. Theo bà, điều này bắt nguồn từ đâu?
Những năm 70, 80 về trước, dân ta đọc sách rất nhiều, nam phụ lão ấu đều đọc. Mỗi lớp người đọc loại sách riêng của mình, trí thức, sinh viên đọc Albert Camus, Jean Paul Sartre, Phạm Công Thiện… các chị tiểu thương ngồi sạp hàng cũng cắm cúi đọc tiểu thuyết của Tùng Long, Dương Hà… Bây giờ, sách hầu như chỉ tác động đến giới học sinh, sinh viên, trí thức. Đặc biệt, sách văn học, văn hóa càng ngày càng trở thành một sản phẩm chuyên môn chủ yếu lưu hành trong những người cùng chuyên ngành.
Tuy nhiên, cũng có nhiều sự kiện để lạc quan vì trong cuộc cạnh tranh để duy trì vị trí của mình, ngành xuất bản đã vượt lên rõ rệt về mọi mặt. Chưa bao giờ chúng ta có nhiều sách hay, sách đẹp, nhiều chương trình khuyến đọc như thế.
Một điều rất thú vị là trong khi số người lớn đọc giảm xuống, lại có thêm những độc giả “nhí” đến mức không ngờ. Bây giờ không chỉ Âu Mỹ, mà ở Việt Nam cũng đã có sách dành cho những bé một, hai tuổi. Mới nghe tưởng là sự áp đặt của người lớn, nhưng điều đáng ngạc nhiên, nhiều bé lại thích sách hơn đồ chơi.
Nhìn một bé chưa biết nói lẫm chẫm lấy sách ra dí vào tay cha mẹ, đòi cùng xem với mình, ta sẽ thấy lạc quan hơn với tương lai của nghề làm sách. Các bé rồi đây sẽ đến với những cuốn sách lớn hơn trong từng chặng đời.
Là một nhà văn, bà lý giải sự phát triển kinh tế ảnh hưởng với văn hóa đọc thế nào?
Văn hóa đọc quả có suy giảm cùng với phát triển kinh tế kỹ thuật, vì rất nhiều lý do:
- Kinh tế càng phát triển thì công việc càng bận rộn, thời giờ cho suy tưởng, chiêm nghiệm, cảm xúc đương nhiên phải ít lại.
- Sự đa dạng của các sản phẩm nghe - nhìn: Món ăn tinh thần nhiều quá, nhiều loại “thức ăn nhanh” không tốt cho sức khỏe nhưng lại phù hợp với nhịp sống mới nên vẫn được nhiều người lựa chọn.
- Và một thứ đáng gờm nhất là smartphone (điện thoại thông minh - PV). Trường học ở Mỹ luôn dạy cho học sinh bài học về cái lợi và cái hại của smartphone, trong đó cái lợi thì rất nhiều, nhưng ba cái hại lớn của việc nghiện smartphone là hại mắt, mất quá nhiều thời gian, và mất dần đi khả năng tiếp xúc tự nhiên giữa con người.
Bản thân tôi cũng phải tự khống chế, mỗi ngày chỉ tự cho phép được đọc màn hình tối đa hai tiếng đồng hồ thôi. Biết làm sao, quỹ thời gian của ta có hạn mà trong smartphone có nhiều thông tin quá, thứ gì cũng có vẻ rất cần thiết. Thói quen lướt web làm cho người đọc biết rất nhiều chuyện! Nhưng nó cũng làm sự tiếp nhận của con người trở nên máy móc và đơn giản. Con người sẽ khôn ngoan hơn, nhưng sẽ cạn đi. Đó chính là nguy cơ khiến xã hội phải dồn sức để duy trì văn hóa đọc.
Ngoài việc viết, bà thường tìm đọc những tác giả nào hoặc những tác phẩm như thế nào?
Tôi có nguyên tắc đặt ra cho riêng mình là lúc viết thì chỉ đọc những gì liên quan đến cái mình đang viết. Ví dụ trong tháng vừa qua, vì cần phải tưởng tượng về ngoại hình và y phục của vài nhân vật lịch sử, nên tôi đang đọc lại thật kỹ cuốn Ngàn năm áo mũ của Trần Quang Đức. Sau khi viết xong một cuốn, tôi mới tự thưởng cho mình 6 tháng để đọc tác phẩm văn học. Lúc đó, tôi không viết gì hết, để có trọn vẹn khoái cảm của người đọc sách.
Ở San Francisco, tôi có được sách tiếng Việt từ nhiều nguồn như sách do gia đình mua gửi sang, một số cuốn cũng có thể mua qua Amazon. Rất tiếc, sách Việt trên Amazon quá ít trong khi đây là một kênh phát hành rất hữu hiệu. Thêm một nguồn bổ sung cũng rất thuận tiện là các thành phố ở Mỹ đều có thư viện rất tốt, trong đó có khá nhiều sách của Việt Nam. Tôi đã tìm gặp những cuốn truyện ngắn của mình tại thư viện San Francisco và thư viện Denver, trong khu vực dành cho văn học châu Á.
Một vài tác phẩm hoặc nhà văn yêu thích của bà?
Trước 1945, tôi thích nhất là tác phẩm của hai nhà văn Tô Hoài và Thanh Tịnh.
Với Tô Hoài, giọng văn ông giản dị, trào lộng mà vô cùng tinh tế. Ông chỉ viết về những phận người bé nhỏ (Quê người, Trăng thề), những sinh linh bé nhỏ (O chuột), mà đọc xong mình bồi hồi xúc động và nhớ mãi. Sở dĩ vậy, là vì cái giản dị của ông mang nhiều lớp ý nghĩa, khiến mình có thể nhìn thấy sự nhân hậu và minh triết của tác giả qua từng chi tiết.
Thanh Tịnh theo tôi là nhà văn viết về Huế hay nhất. Tôi được gặp ông một lần vào năm 1986, hai năm trước khi ông mất. Khi ấy ông 75 tuổi, người gầy, tóc bạc trắng hết nhưng đôi mắt rất đẹp và hiền từ, đúng như hình ảnh tôi đã tưởng tượng về tác giả của Quê mẹ. Đôi mắt đầy sự thấu cảm và xót thương, tôi thường hình dung có lẽ Nguyễn Du cũng có đôi mắt như vậy, nên mới nhìn thấy hết nỗi đau của thập loại chúng sinh.
Sau 1954, tác giả tôi thích đọc nhất là Vũ Hạnh. Sau 1975, tác giả tôi thích đọc nhất là Nguyễn Xuân Khánh.
Với văn học Nhật, tôi yêu nhất Kawabata, vì khuynh hướng duy cảm và duy mỹ của ông. Với văn học Trung Quốc, nhiều người sẽ cho rằng sáng giá nhất là Mạc Ngôn, Thiết Ngưng… nhưng riêng tôi thích Phùng Ký Tài vì sự hiểu biết uyên thâm của ông về văn hóa Trung Hoa. Viết về một dân tộc rất cực đoan nhưng ông không bao giờ lên gân, trái lại rất điềm tĩnh, một sự điềm tĩnh đầy trọng lượng.
Với châu Mỹ, tôi ấn tượng với Garcia Marquez và bút pháp hiện thực huyền ảo. Theo tôi nhận xét, nhiều nỗ lực cách tân của một số nhà văn Việt Nam hiện nay vẫn ít nhiều mang dấu ấn ảnh hưởng của ông, mặc dù giải Nobel của Marquez đã gần nửa thế kỷ rồi.
Câu châm ngôn hoặc bài học cuộc sống bà đã rút ra từ sách?
“Không phải vì già đi mà người ta thôi theo đuổi những giấc mơ. Chính vì không còn theo đuổi những giấc mơ mà người ta già đi” (Nhà văn Gabriel Garcia Marquez).
Trong trải nghiệm cuộc sống của mình, bà cảm thấy điều may mắn và hạnh phúc nhất mình có được là gì?
Điều may mắn của đời tôi là đã chọn được công việc phù hợp nhất với mình. Khi nhỏ, tôi mê đọc truyện, lớn lên tôi dạy văn, rồi làm xuất bản, và viết truyện. Tất cả đều liên quan đến sách. Như Mark Twain đã viết: “Làm việc là thực hành một trò chơi với sự bắt buộc. Vui chơi là thực hành một công việc với niềm hứng thú.” Như vậy tôi đã được vui chơi trong suốt đời tôi, mặc dù sự “vui chơi” ấy đôi khi cũng không nhẹ nhàng.
Thực sự, trang viết đã nhiều lần giúp tôi vượt qua những giờ phút khủng hoảng, mất mát, cô độc nhất. Bây giờ tôi đã lớn tuổi và nhiều thứ đang xa dần khỏi tầm tay, thì “trò chơi” viết sách là thứ luôn còn lại trong “đáy hộp Pandora” của mình. Mỗi cuốn sách đang viết là một âm thanh lặng lẽ mà xôn xao trong lòng, khi nào âm thanh ấy còn vang lên, thì cuộc sống của mình vẫn còn vui, và đời mình vẫn còn có giấc mơ để theo đuổi.