Nhân lễ giỗ lần thứ 325 của Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh Khi một nhân cách đi vào lòng dân

Hơn 325 năm lịch sử thăng trầm, song tấm lòng vì dân, vì nước cùng nhân cách cao đẹp của Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh luôn là tấm gương sáng đối với các thế hệ người Việt Nam, nhân dân Nam Bộ. Nhân dân mãi mãi ghi tạc công lao khai mở to lớn của ông đối với vùng đất phương Nam.

Tượng Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh ở đình Bình Kính (phường Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa). Ảnh: Văn Thành

Tượng Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh ở đình Bình Kính (phường Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa). Ảnh: Văn Thành

Trong những ngày này, nhiều nơi trên dải đất phương Nam đang chuẩn bị lễ giỗ lần thứ 325 (1700-2025) của Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh với tất cả lòng thành kính và hoài niệm. Tại đền thờ Thượng đẳng thần Nguyễn Hữu Cảnh ở đất cù lao Phố, UBND thành phố Biên Hòa và Ban Quý tế đền thờ đang gấp rút chuẩn bị cho lễ giỗ đức ông vào ngày 16-5 âm lịch.

Sáng một ngày chủ nhật, chúng tôi rủ nhau sang đền thờ thắp nhang cho Đức ông Nguyễn Hữu Cảnh. Khi đến nơi, chúng tôi được gặp bác Nguyễn Trung Cang - người phụng sự đức ông đã mấy chục năm nay và hiện là Trưởng ban Quý tế đền thờ. Thắp nhang xong, bác Cang mời chúng tôi ra bàn gỗ ngồi uống trà và vui vẻ kể những huyền tích về đức ông, đưa cho chúng tôi xem những cuốn sách quý viết về tiểu sử, công trạng của đức ông, trong đó đặc biệt là cuốn sách Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh (1650-1700) với công cuộc khai sáng miền Nam nước Việt cuối thế kỷ XVII của Như Hiên - Nguyễn Ngọc Hiền, được Nhà xuất bản Đồng Nai tái bản lần thứ I-1995.

Cuốn sách chỉ vỏn vẹn 300 trang, nhưng rõ ràng là công trình nghiên cứu nghiêm túc và sáng giá. Tác giả viết bằng cả tấm lòng thành kính của một hậu duệ trong dòng họ Nguyễn đối với tiền nhân và với trách nhiệm đáng trân quý của người phục dựng lịch sử. Không chỉ bằng việc sử dụng những tài liệu đã có trong kho tàng lịch sử nước nhà, trân trọng biết bao nhiêu khi tác giả cùng người thân đầu tư rất nhiều thời gian, công sức để thực hiện công cuộc lần về dấu xưa, rong ruổi khắp nơi tìm về những vùng đất là quê hương bản quán của Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh ở Quảng Bình, đến những địa danh có sự hiện diện của ông như Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh, An Giang… để làm hiện lên bức tranh khá toàn diện về cuộc đời và sự nghiệp của tiền nhân.

Nhân ngày giỗ lần thứ 325 của Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, nhân dân Đồng Nai nói riêng, nhân dân Việt Nam nói chung bày tỏ lòng ngưỡng vọng bậc công thần hiền tài, người đã khai mở vùng đất phương Nam của Tổ quốc, tạo dựng một cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhiều đời con cháu mai sau.

Ngồi trong khuôn viên đền thờ, đọc những trang sách của tác giả Nguyễn Ngọc Hiền, tôi dần cảm nhận đầy đủ và trọn vẹn về thân thế và sự nghiệp của Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh từ nguồn gốc Nguyễn Tộc, phả hệ dòng họ Nguyễn Hữu, quê hương và con người Nguyễn Hữu Cảnh thuở thiếu thời đến công cuộc mở mang bờ cõi miền Nam, xử sự với Champa; kinh lược đất Nông Nại, bình định Chân Lạp… một bậc khai quốc công thần, một anh hùng tài đức vẹn toàn, một nhân cách mãi mãi đi vào lòng dân.

Thời ấy, đất Nông Nại rộng lớn bao la thuộc vùng Thủy Chân Lạp, một vùng hoang sơ, rừng rậm, sình lầy, sông rạch chằng chịt, nơi cao thì hổ báo quần tụ, nơi thấp cá sấu vẫy vùng. Ở đây, con người quá nhỏ bé so với thiên nhiên rộng lớn mà hung dữ. Âm vang từ vùng đất hoang sơ còn vọng lại đến hôm nay qua những tiếng than của cha ông thuở nào như nhắc nhở chúng ta “uống nước phải nhớ lấy nguồn”:

“Đến đây xứ sở lạnh lùng,

Tiếng chim kêu cũng sợ, tiếng cá vùng cũng kinh”.

Hay:

“Đồng Nai địa thế hãi hùng,

Dưới sông cá lội, trên giồng cọp um”.

Cho đến thế kỷ XVII, đất Nông Nại ranh giới biên cương vẫn còn mờ nhạt, dưới sự ngoại giao khôn khéo, sự bảo trợ và khích lệ của chúa Nguyễn nên người Việt, Hoa, Man, Chân Lạp và tộc người bản địa Mạ, Chơro, S’tiêng… sống hòa với nhau, gắn bó nhau cùng chống chọi với thiên nhiên, ra sức khai khẩn đất đai, trồng tỉa, đào sông, đắp lũy, lập xóm, lập chợ.

Rồi mùa xuân năm 1698, vâng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu, Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh từ dinh Bình Khương đã vào kinh lược đất phương Nam xác nhập vào bản đồ Đại Việt. Bắt đầu từ đây, đất Nông Nại mang tên Gia Định phủ, xứ Đồng Nai thành Phước Long huyện có Trấn Biên dinh, xứ Sài Gòn thành Tân Bình huyện có Phiên Trấn dinh và dưới dinh là các làng, xã, ấp được thành lập, có chủ quyền cùng với những thể chế hành chính cởi mở của chúa Nguyễn.

Nhưng phải nói rằng, Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh không chỉ cai trị dân theo những sắc dụ mà chủ yếu bằng tình thương yêu, bằng thái độ cảm thông thật sự. Trong kế sách kinh lược, Nguyễn Hữu Cảnh tích cực vận động người dân từ vùng Ngũ Quảng vào sinh sống, khai phá đất đai; đồng thời dùng tên làng xóm nơi quê hương người di cư ra đi, đặt tên làng xóm nơi quê hương mới, cho khỏi quên gốc rễ. Chính vì vậy, số dân di cư vào lập nghiệp giai đoạn này lên đến 3 vạn hộ. Nhờ bàn tay con người vùng đất hoang sơ, rừng rú rộng lớn dần trở nên màu mỡ, trù phú. Những bến sông, bến đò dần hình thành thị tứ/chợ ven sông phục vụ nhu cầu trao đổi, mua bán hàng hóa trong và ngoài vùng.

Lễ hội truyền thống lễ giỗ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia

Ngày 3-6, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch Nguyễn Văn Hùng đã ký Quyết định số 1658 và 1664/QĐ-BVHTTDL về việc công bố Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Trong đó, bộ đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia lễ hội truyền thống Lễ giỗ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh (phường Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa) và Lễ hội Sayangva (cúng thần lúa) của người Chơro ở thành phố Long Khánh, huyện Xuân Lộc, huyện Thống Nhất, huyện Định Quán, huyện Cẩm Mỹ, huyện Vĩnh Cửu (tỉnh Đồng Nai).

Với người Hoa, Nguyễn Hữu Cảnh luôn thực hiện kế sách cởi mở, khuyến khích thương nhân Hoa kiều đến buôn bán cho sầm uất để Phủ Gia Định hình thành và phát triển 2 trung tâm thương mại lớn là thương cảng Nông Nại Đại Phố và Mỹ Tho Đại Phố, sau này còn có thương cảng Sài Gòn - Chợ Lớn. Vùng đất mới mở rộng mãi mãi là một phần đất của nước Đại Việt.

Là một vị tướng dũng mãnh trên sa trường Nguyễn Hữu Cảnh còn là bậc đại nhân, đại nghĩa, luôn lấy dân làm gốc. Đó là sự kế tục tư tưởng nhân văn của dòng họ Nguyễn Hữu mà người nêu cao tư tưởng này là Nguyễn Trãi - vị khai quốc công thần nhà Lê. Ở đâu, vào lúc nào, ông cũng khao khát cho dân lành được an cư lạc nghiệp. Chúng ta còn nhớ, Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh trong cuộc bình định Chân Lạp năm 1700 đã tỏ rõ sự mưu lược, lòng nhân nghĩa, khoan dung; sau khi đánh bại kẻ địch chiếm được thành, ông liền ra khẩu dụ vỗ an dân chúng Chân Lạp, nhờ vậy ổn định tình hình biên cương, tạo điều kiện cho người Việt di cư và làm ăn ở vùng đất Hậu Giang thuận lợi.

Công đức và nhân cách của Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh in đậm trong tiềm thức của người dân và mãi mãi lưu truyền hậu thế. Có lẽ vì vậy, ông luôn được nhân dân kính trọng và coi như một vị Thần. Khi ông mất, nhân dân vùng đất mới khai phá, người Việt cũng như người Hoa, Chăm… đều nhớ ơn ông - người đã giúp họ khai hoang, mở đất, an cư, lạc nghiệp và họ đã lập đền thờ hoặc lập bài vị ông ở nhiều nơi trên đất Quảng Bình, Quảng Nam, Biên Hòa, Long Xuyên, Châu Đốc, Nam Vang (Campuchia)… Để rồi qua năm tháng, trong những dáng phố, dáng làng và hình hài của bao xứ cù lao, đền miếu đều in đậm dấu ấn của người đi mở cõi. Ghi dấu tình cảm, sự tôn kính của nhân dân đối với đức ông qua nhiều thế kỷ.

Xuân Nam

Nguồn Đồng Nai: https://baodongnai.com.vn/dong-nai-cuoi-tuan/202506/nhan-le-gio-lan-thu-325-cua-le-thanh-hau-nguyen-huu-canh-khi-mot-nhan-cach-di-vao-long-dan-bea0167/