Nhập tỉnh, bỏ huyện - mở rộng không gian phát triển
Theo các chuyên gia, việc sáp nhập tỉnh, bỏ huyện, sáp nhập các xã như yêu cầu của Kết luận 127 là những việc làm tất yếu tạo nên sự đột phá thành công của cuộc cách mạng lần này.
Trên thực tế, việc thu gọn 63 tỉnh, thành đã được đặt ra từ nhiều năm trước, song có nhiều nguyên nhân khiến chủ trương này chưa được triển khai cụ thể. Sau ngày thống nhất đất nước, năm 1976, cả nước từ 72 tỉnh, thành được sáp nhập lại chỉ còn 38, rồi qua các giai đoạn, con số này lại tăng lên 63 như hiện nay.
Nhiều tỉnh thành hiện nay quá nhỏ, dân số quá ít, diện tích quá bé, không còn không gian phát triển. Do vậy, các nhà nghiên cứu cho rằng, cùng với cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị, đã đến lúc phải sáp nhập một số đơn vị hành chính cấp tỉnh, bỏ cấp huyện. Điều này sẽ tạo nguồn lực và không gian phát triển cho địa phương và đất nước.
Ngày 1/8/2008 là thời điểm lịch sử khi Thủ đô Hà Nội mở rộng địa giới hành chính. Theo Nghị quyết 15, Thủ đô bao gồm: Hà Nội, toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh (Vĩnh Phúc) và bốn xã của huyện Lương Sơn (Hòa Bình). Sau sáp nhập, Hà Nội rộng hơn 3.300 km² và nằm trong số 17 thành phố, thủ đô lớn nhất thế giới. Sự phát triển của Thủ đô trong 17 năm qua đã cho thấy sự đúng đắn của một quyết định mang tính lịch sử. Thủ đô đã thay đổi mạnh mẽ cả về quy mô, diện mạo với những thành tựu to lớn, toàn diện trên các lĩnh vực.
Trong đó, năm 2024, Hà Nội lần đầu tiên trong lịch sử thu ngân sách vượt 500 ngàn tỷ đồng, trong đó với số thu nội địa ước đạt hơn 470 nghìn tỷ đồng, cao nhất từ trước đến nay và cao nhất cả nước. Thành công này có được bởi Thủ đô đã mở rộng không gian phát triển, khai thác các nguồn lực một cách hiệu quả trên toàn bộ 30 quận, huyện, đặc biệt là những khu vực thuộc tỉnh Hà Tây và Vĩnh Phúc trước khi sáp nhập.
Là nhà nghiên cứu lịch sử, PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc nhắc lại câu chuyện cải cách hành chính dưới thời vua Minh Mạng (vào những năm 1831 - 1832). Cuộc cải cách của vua Minh Mạng được đánh giá là tích cực, tiến bộ trong lịch sử phong kiến Việt Nam, đặc biệt đã xây dựng, phân định các tỉnh rất gọn chỉ với 30 tỉnh và một phủ Thừa Thiên (Kinh đô), so với hiện nay diện tích lúc đó có phần lớn hơn và các điều kiện hạ tầng, cơ sở, dân số khó khăn hơn rất nhiều.
Theo ông, nhìn từ bài học lịch sử của vua Minh Mạng thì chủ trương của Bộ Chính trị, Ban Bí thư yêu cầu nghiên cứu sáp nhập một số tỉnh là cần thiết, phù hợp với xu thế tất yếu, không thể khác được. Việc này sẽ giúp tạo điều kiện, dư địa, nguồn lực mới cho các tỉnh phát triển, từ đó tạo thế và lực cho đất nước bước vào kỷ nguyên mới - vươn mình phát triển.
Theo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các tỉnh, thành phải đảm bảo ba tiêu chí gồm quy mô dân số, diện tích, số đơn vị hành chính cấp huyện.
Cụ thể, các tỉnh miền núi, vùng cao phải có dân số từ 900.000, diện tích 8.000 km², trong khi các tỉnh, thành còn lại phải có dân số ít nhất là 1,4 triệu và diện tích 5.000 km² trở lên. Đồng thời, tỉnh, thành phải có 9 đơn vị hành chính cấp huyện, trong đó ít nhất một thành phố hoặc một thị xã. Xét theo các tiêu chí trên, hiện tại có 21 tỉnh thành không đáp ứng được tiêu chuẩn cả về diện tích lẫn dân số, trong đó 8 tỉnh miền núi và 13 tỉnh không phải miền núi.
Việc duy trì 63 tỉnh, thành hiện đang dẫn đến tình trạng phân tán nguồn lực, lãng phí ngân sách, gây khó khăn cho quy hoạch, đầu tư phát triển các dự án lớn và tạo động lực phát triển vùng. Do vậy, theo chuyên gia, việc sáp nhập các tỉnh không phải là việc thực hiện cơ học mà phải dựa trên quy hoạch kinh tế - xã hội, đặc điểm đặc thù về văn hóa, lịch sử và địa lý.
Trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV, một trong những vấn đề quan trọng là làm thế nào để tinh gọn bộ máy hành chính hiệu quả. Do vậy, theo các chuyên gia, việc sắp xếp tinh giản đầu mối thì việc sáp nhập tỉnh, bỏ huyện, sáp nhập các xã như yêu cầu của Kết luận 127 là những việc làm tất yếu tạo nên sự đột phá thành công của cuộc cách mạng lần này và cần tiến hành trước đại hội.
Và đây là thời điểm chín muồi để cải cách triệt để bộ máy chính quyền địa phương, đảm bảo hiệu quả, hiệu lực của bộ máy Nhà nước, đồng thời phải gần gũi với người dân, tạo niềm tin trong nhân dân. Mục tiêu cuối cùng là giảm chi thường xuyên, giảm chi lương để tập trung nguồn lực cho đầu tư phát triển và an sinh xã hội, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.