Nhiệm vụ mới và lực lượng mới

Các nhà kinh điển Mác - Lênin đã luận chứng rằng, bất cứ một quốc gia - dân tộc nào, dù đi lên bằng con đường chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa xã hội đều phải chú trọng việc xác định rõ nhiệm vụ lịch sử và xây dựng lực lượng ngang tầm với nhiệm vụ đó. Nếu không, công cuộc xây dựng và phát đất nước hay nói khác đi là sự nghiệp cách mạng sẽ khó có thể đi đến thắng lợi, thậm chí là thụt lùi và thất bại.

1. Thực tiễn lịch sử cho thấy, dù trong chiến tranh hay hòa bình, bằng cách này hay cách khác, cách mạng đều luôn vận động và biến chuyển không ngừng, có khi nhanh chóng bằng một thắng lợi quân sự hay những cải cách chính trị, có khi diễn ra lặng lẽ bằng những sách lược “tiến - lùi”, nhưng đều đặt ra cho giai cấp lãnh đạo và đội tiên phong của nó những nhiệm vụ mới về mặt thực tiễn.

Cứ sau mỗi sự biến chuyển mang tính quy luật ấy, cách mạng lại đặt ra cho lực lượng lãnh đạo những yêu cầu mới, nhằm hội tụ lực lượng đủ khả năng giải quyết những nhiệm vụ mới mà thực tiễn đặt ra. Lênin đã chỉ ra rằng: “Vấn đề trước mắt chúng ta, trước hết là cụ thể làm cách nào để sử dụng, chỉ đạo thống nhất và tổ chức những lực lượng mới ấy; cụ thể làm cách nào để tập trung công tác của Đảng chủ yếu vào những nhiệm vụ mới cao hơn do tình hình mới đề ra”(1). Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng chỉ rõ: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần phải có con người xã hội chủ nghĩa”(2), tức là, khi bước vào xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa, thì cần phải có lực lượng mới (tương xứng) đủ năng lực, phẩm chất (tâm và tài) thực hiện nhiệm vụ mới của chủ nghĩa xã hội (CNXH). Đó cũng là quá trình diễn ra đầy khó khăn, phức tạp, không tránh khỏi những sự chống đối, những dao động, hay sự đấu tranh giữa các xu hướng trong nội bộ, kể cả những xu hướng quan liêu, bảo thủ.

Cách mạng Việt Nam từ khi có sự lãnh đạo của Đảng đến nay, luôn là minh chứng cho sự vĩ đại từ các chỉ dẫn đúng đắn của Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhất là trong công cuộc đổi mới đất nước gần 35 năm qua. Một mặt, Đảng không quên “nhiệm vụ cũ” có tính nguyên tắc, như: Kiên trì độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; mặt khác, luôn xác định rõ những nhiệm vụ mới của từng giai đoạn lịch sử để xây dựng lực lượng mới phù hợp, đáp ứng với yêu cầu của lịch sử. Mỗi khi xuất hiện nhiệm vụ mới, Đảng kịp thời đề ra chủ trương, chiến lược, sách lược xây dựng lực lượng mới, đảm bảo gánh vác sứ mệnh lịch sử được nhân dân giao phó.

Công cuộc đổi mới phải kể đến những thành quả quá độ phát triển rất căn bản trong thực tiễn, minh chứng cho sự giải quyết kịp thời mối quan hệ, gắn bó hữu cơ giữa nhiệm vụ mớilực lượng mới, làm tiền đề cho toàn bộ công cuộc đổi mới được nâng lên ở tầm cao mới, cao hơn.

Thứ nhất, quá độ phát triển về lý luận. Trải qua sáu nhiệm kỳ đại hội từ năm 1986 đến nay, hai lần ban hành Cương lĩnh và Hiến pháp mới, công cuộc đổi mới đã đánh dấu những bước tiến lớn, quan trọng trong công tác lý luận của Đảng. Nhận thức lý luận về công cuộc đổi mới, về CNXH và con đường đi lên CNXH của nước ta ngày càng sáng tỏ hơn; đường lối đổi mới ngày càng được bổ sung, phát triển và phát huy trong thực tiễn, phù hợp với quy luật phát triển tất yếu của lịch sử và xu thế của thời đại. Phát triển sáng tạo lý luận, từng bước khắc phục những yếu kém, khuyết điểm, khắc phục tư tưởng giáo điều, bảo thủ hoặc cực đoan, duy ý chí để đi đến cái đúng, cái chân lý.

Thứ hai, quá độ phát triển về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là một bước ngoặt, tạo ra những dấu mốc phát triển mang tính lịch sử cho cả dân tộc. Thực lực của nền kinh tế từng bước được tăng lên nhờ những lực lượng mới được đào tạo căn cơ, với quyết tâm xóa bỏ nghèo nàn lạc hậu, giảm bớt tụt hậu. Nhờ đó, công cuộc đổi mới đã nhanh chóng đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển sau chỉ vài thập niên, trở thành nước thu nhập trung bình và được đánh giá là thuộc nhóm nước tăng trưởng khá cao trên thế giới. Kinh tế phát triển, tạo đà đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng đất nước lên tầm cao mới.

Thứ ba, quá độ phát triển toàn diện về văn hóa, con người Việt Nam, hướng đến những giá trị chân - thiện - mỹ, dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Công cuộc đổi mới đã tạo ra bầu không khí xã hội dân chủ, cởi mở hơn, khiến cho nhiều lực lượng mới được ra đời vì mục tiêu phát triển của đất nước; dân trí được nâng cao, tính tích cực cá nhân và xã hội được phát huy. Những nhân tố mới, giá trị mới của văn hóa con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế từng bước được định hình trong cuộc sống. Văn hóa được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội và thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước.

Những thắng lợi đó, góp phần quan trọng cho công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, làm cho sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ XHCN được giữ vững. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.

2. Sự thay đổi nêu trên có nhiều điểm dễ nhận thấy, nhưng cũng có những nội dung diễn ra lặng lẽ, khiến cho một bộ phận trí thức, thậm chí được cho là “giới tinh hoa” luôn tỏ ra lo lắng, “sợ hãi”, và cả thất vọng, hoài nghi về tính chất vững chắc và sức sống của công cuộc đổi mới. Với cách nhìn phiến diện, cực đoan, họ thường bỏ qua những thành quả của công cuộc đổi mới và chỉ “chăm chắm” đưa ra những khuyết điểm, bất cập xuất phát từ tình hình thực tiễn. Họ cho rằng, quá trình xác định nhiệm vụ mới không rõ, duy ý chí và thiếu cơ sở thực tiễn; quá trình tổ chức lực lượng mới có nhiều khuyết điểm từ trong chủ trương, chính sách và hành lang pháp lý, đã không thu hút được nhân tài, làm lãng phí nhiều tài nguyên “chất xám”, làm cho đạo đức xã hội xuống cấp, và vì thế, Đảng không đủ sức để làm những nhiệm vụ mới... và làm “mất nhiều thời gian” phát triển của đất nước.

Trên thực tế, trước sự biến đổi mau lẹ của thực tiễn, sự phát triển vũ bão của khoa học công nghệ, lực lượng mới của công cuộc đổi mới trên nhiều lĩnh vực đúng là vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của tình hình thực tiễn; chưa thực sự đủ sức thuyết phục và mạnh để “quét sạch” tất cả những sự dao động, “sợ hãi” và lo lắng như vậy. Chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá nhân do đó vẫn còn đất sống, là một trong những nguyên nhân cản trở, thậm chí làm suy giảm, bế tắc sự phát triển của công cuộc đổi mới.

Tình huống dao động như vậy, dẫn đến những nhận định thiếu khoa học, thiếu niềm tin vào công cuộc đổi mới và con đường đi lên CNXH ở nước ta. Những dao động như vậy, xét trên toàn diện công cuộc đổi mới, mới chính là sự lạc hậu về lý luận và sự chậm chạp về thực tiễn, sự mơ hồ về xu thế phát triển của thời đại. Cũng chính sự giao động ấy, đã và sẽ dẫn đến “tự diễn biến”, tự chuyển hóa”, là ranh giới rất “mong manh” để tự chuyển sang “cổ động chính trị”, mở đường qua những học thuyết cơ hội chủ nghĩa, tiếp tay cho các thế lực thù địch

Trong những năm gần đây, cơ chế, chính sách, pháp luật ở nước ta có nhiều tiến bộ, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận, tham gia vào quá trình đổi mới, xây dựng đất nước. Tuy nhiên, nhìn thẳng và đánh giá đúng sự thật, Đảng ta cũng đã nhận thấy, công tác xây dựng lực lượng mới cả về “sắp đặt và điều khiển” lực lượng vẫn còn nhiều bất cập, kém hiệu quả. Cuộc đấu tranh, phòng chống bệnh quan liêu, chống thói “lề mề” trong công tác, chống chống tệ tham ô, hối lộ,… vẫn chưa đạt đến kỳ vọng của đông đảo cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Đánh giá thực tiễn đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ sáu, khóa XII, Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả nêu rõ: “Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đề ra… Cơ cấu cán bộ, công chức, viên chức giữa các cấp và trong từng cơ quan chưa hợp lý; năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ chuyên trách còn hạn chế,… đang tác động trực tiếp đến vai trò lãnh đạo, uy tín của Đảng và niềm tin của nhân dân”(3). Những yếu kém đó, làm cho thực tiễn “người thì nhiều, nhưng lại thiếu người”. Đó là một công thức mâu thuẫn đã và đang diễn ra ở không ít nơi, trong không ít lĩnh vực. Đến đâu, chúng ta cũng nghe thấy những lời phàn nàn về sự “thừa thãi” cán bộ, như “khoảng trên 30% chỉ sáng cắp ô đi, chiều cắp ô về”, kèm theo những lời phát biểu kêu gọi tinh giản biên chế, tinh giản bộ máy. Nhưng ngược lại, ở đâu, cũng thấy tình trạng thiếu người làm việc, kèm theo những lời đề nghị khẩn thiết, nhất là từ cơ sở “sớm khắc phục sự thiếu hụt cán bộ”!?

Lý do nào tạo nên công thức mâu thuẫn ấy? Có nhiều nguyên nhân, trong đó phải nói đến yếu tố chủ quan - một trong những nguyên nhân hàng đầu, đó là nhận thức, ý thức trách nhiệm của một số cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên chưa đầy đủ, toàn diện về tầm quan trọng, tính cấp thiết về đổi mới xây dựng lực lượng mới đủ năng lực, tư cách đáp ứng với nhiệm vụ mới. Bên cạnh đó, tình trạng tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ, nhân sự vẫn diễn ra ngày càng khó lường; tình trạng nể nang, lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm; tư tưởng bao cấp, tâm lý dựa dẫm, trông chờ vào Nhà nước còn khá phổ biến. Trong khi, công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát thiếu thường xuyên; chưa xử lý nghiêm đối với những tập thể, cá nhân, nhất là người đứng đầu khi có vi phạm… làm cho những kẻ cơ hội chính trị, lập lờ “đánh lận con đen” xâm nhập vào Đảng và trong bộ máy Nhà nước ngày càng nhiều và trở thành những căn bệnh “tha hóa quyền lực” khó chữa. Sự thật đó, đã và đang làm yếu kém lực lượng mới, không thể đáp ứng nhiệm vụ mới mà thực tiễn đặt ra.

Công cuộc đổi mới ở nước ta cần phải tiếp tục thực hiện quyết liệt những nhiệm vụ mới trong thực tiễn. Muốn vậy, phải xây dựng được một lực lượng mới có đủ khả năng xem xét việc thực hiện nhiệm vụ đó. Đồng thời, phải thiết lập bằng được một nền văn hóa giáo dục thực sự tới tầm, thực sự tiến bộ để chống bệnh quan liêu, giấy tờ và nạn tham nhũng, lãng phí vẫn còn rất gay gắt; kể cả phải loại bỏ nhanh chóng một bộ phận cán bộ, đảng viên như Lênin đã từng chỉ ra khi bước vào thực hiện Chính sách kinh tế mới (NEP): “Những đảng viên chạy theo hư danh dù có cho không chúng ta cũng không nhận... Tôi rất mong chúng ta có thể đuổi ra khỏi Đảng từ 10 vạn đến 20 vạn người đã len lỏi vào Đảng và đã không những không biết đấu tranh chống bệnh giấy tờ cùng nạn hối lộ, mà còn cản trở cuộc đấu tranh này nữa”(4).

3. Công cuộc đổi mới đất nước đòi hỏi ngày càng phải nhận thức và xác định rõ hơn tình hình thực tiễn và những nội dung cơ bản nhằm xây dựng, tổ chức lực lượng mới tốt hơn.

Thứ nhất, xác định nhiệm vụ mới phù hợp trong điều kiện lịch sử mới. Cương lĩnh chính trị thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung phát triển năm 2011) được Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII cụ thể hóa với 6 nhiệm vụ trọng tâm. Trong đó, 2 nhiệm vụ quan trọng được đặt lên hàng đầu liên quan đến công việc xây dựng nhiệm vụ, đồng thời xây dựng lực lượng mới, đó là: 1) Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; 2) Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu(5). Các nhiệm vụ khác, đều có nội dung đề cập đến việc chăm lo xây dựng lực lượng mới, như: Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao (nhiệm vụ thứ ba); thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân (nhiệm vụ thứ năm); phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh (nhiệm vụ thứ sáu). Đó là nhiệm vụ hết sức quan trọng trong công cuộc đổi mới ở tầm cao mới.

Thứ hai, xây dựng, tổ chức lực lượng mới ngang tầm với nhiệm vụ mới.

Trước hết, xây dựng lực lượng mới. Điều kiện lịch sử mới cần phải đặt ra những yêu cầu mới đối với lực lượng mới, nhất là vai trò tiên phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ đảng viên cấp chiến lược. Việc xây dựng lực lượng mới, tăng cường thu hút ngày càng nhiều nhân tài, những phần tử ưu tú vào đội ngũ của Đảng và hàng ngũ cán bộ công chức của đất nước là yêu cầu cấp bách.

Một trong ba nguyên tắc lựa chọn nhân sự nhiệm kỳ 2020 - 2025 được Bộ Chính trị khóa XII đề ra vừa qua là, phải đặc biệt coi trọng chất lượng, tiêu biểu về trí tuệ, phẩm chất, uy tín, thật sự trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo trong tình hình mới. Đảng không yêu cầu mỗi ủy viên phải thông thạo các tri thức trên mọi lĩnh vực, nhưng đòi hỏi cấp ủy (cả Trung ương và địa phương) phải thông thạo tri thức trên mọi lĩnh vực, phải tập hợp được những người có tài năng, những nhân tài ưu tú của các địa phương, các ngành, các lĩnh vực có uy tín tạo nên sức mạnh trong Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng chỉ rõ: “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài”, nên phải “trọng dụng những kẻ hiền năng”. Vì thế, ngay từ những ngày đầu cách mạng, Người đã phát đi thông điệp, yêu cầu “các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho chính phủ biết”(6) để trọng dụng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là hiện thân vĩ đại của nghệ thuật dùng người tài đức là như vậy.

Với nền tảng dân chủ ngày càng được mở rộng, có những việc trước đây chỉ được coi là công việc của Đảng, thì giờ đây đã bước vào phạm vi thực tiễn, trở thành những việc bình thường mà quần chúng cũng được tham gia và có khả năng giải quyết. Trên thực tế, nhiều công việc của Đảng, đã và đang từng bước có thể được chuyển giao tới những lực lượng mới trong những tầng lớp rộng rãi hơn vì mục tiêu phát triển. Điều đó, hoàn toàn không làm giảm vai trò lãnh đạo của Đảng mà càng tăng thêm sức mạnh chính trị, tăng thêm sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, để Đảng ngày càng chứng tỏ là đội tiên phong lãnh đạo, dẫn dắt giai cấp, dân tộc chứ không phải Đảng “làm thay” hoặc “chạy theo các sự biến” như trước đây.

Hai là, tổ chức lực lượng mới phù hợp với tình hình thực tiễn đặt ra. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, cần có những phương pháp tổ chức mới, tạo thêm nhiều và nhiều “đội quân” mới. Xã hội càng phát triển, càng cần phải mở rộng những khuôn khổ bình thường của tất cả các tổ chức, trong đó có tổ chức đảng. Chỉ có như vậy, Đảng mới thu hút đa dạng các thành phần có mục tiêu, lý tưởng quốc gia, dân tộc tham gia làm mạnh hơn những đội quân của Đảng. Lênin đã từng chỉ rõ: “Sự chậm trễ của chúng ta trong việc ấy sẽ có lợi cho những kẻ thù của Đảng; bởi vì những con suối mới đang tìm kiếm những lối thoát một cách cấp bách và nếu không tìm được luồng dân chủ - xã hội thì nó đổ vào luồng phi dân chủ - xã hội”(7). Lênin chỉ ra: “Từ lâu người ta đã nói đã nói là trong chính trị nhiều khi phải học tập ở kẻ thù. Và trong những thời kỳ cách mạng thì kẻ thù luôn luôn buộc cách mạng phải rút ra những kết luận đúng đắn, một cách đặc biệt bổ ích và mau lẹ... Cần phải có một quy mô hoàn toàn khác cho toàn bộ công việc”(8). Tư tưởng vĩ đại ấy của Lênin, vẫn mãi còn mang tính thời sự nóng hổi. Bởi, suy cho cùng, tất cả những thành quả thực tế của cách mạng cũng sẽ chỉ tùy theo trình độ tổ chức của giai cấp lãnh đạo mà được vững vàng và chắc chắn hay suy giảm. Công cuộc đổi mới hiện nay cần phải có một quy mô khác trước cho toàn bộ công tác tổ chức để phát huy năng lực của mỗi người, làm cho mọi người lao động đều có thể đem sức mình xây dựng đất nước, phụng sự Tổ quốc và Nhân dân.

Ba là, chú trọng xây dựng cho được nền văn hóa phục vụ trong lực lượng mới trên tinh thần dân chủ và tự do sáng tạo, để trong bất cứ hoàn cảnh nào, người cán bộ, đảng viên cũng phải dùng đến thứ văn hóa được giáo dục, để gương mẫu và luôn soi mình cho quần chúng noi theo. Nếu không nâng cao tinh thần văn hóa nhân văn, hướng đến chân - thiện - mỹ, dân tộc và khoa học thì không thể đạt được yêu cầu của sự phát triển vì con người và vì dân tộc. Lênin đã từng chỉ ra: “Cần phải có một nền văn hóa để giáo dục người ta chống bệnh giấy tờ và hối lộ nữa. Đó là một cái ung nhọt mà người ta không thể dùng một thắng lợi quân sự và những cải cách chính trị để chữa khỏi cái ung nhọt ấy mà chỉ có thể nâng cao trình độ văn hóa lên mới có thể chữa khỏi được”(9)!

Trong điều kiện lịch sử mới, đứng trước sự phát triển vũ bão của tri thức nhân loại, việc xây dựng nền văn hóa cán bộ, văn hóa Đảng là yêu cầu tất yếu và cấp thiết nhằm tăng cường củng cố nền tảng giai cấp, mở rộng nền tảng quần chúng, nâng cao năng lực cầm quyền và thúc đẩy toàn diện sự nghiệp phát triển con người. Nếu chúng ta dừng lại một cách bất lực trước những giới hạn, hình thức và khuôn khổ đã đạt tới của công cuộc đổi mới như hiện nay, thì như vậy chúng ta chưa thể có một lực lượng mới ngang tầm với nhiệm vụ mới./.

_______________________________

(1), (7), (8) V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1979, t. 9, tr. 197, 379.

(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2011, t. 13, tr. 66.

(3) Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017, báo Nhân dân ngày 26-10-2017.

(4), (9) V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, t. 44, tr. 214, 215.

(5) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu lần thứ XII. Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H. 2016, tr. 432- 434.

(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 504.

Phương Vinh

Nguồn Tuyên Giáo: http://www.tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/nhiem-vu-moi-va-luc-luong-moi-125117