Nhiều bệnh phát sinh khi cơ thể thiếu i-ốt

Theo Bộ Y tế, báo cáo 2021 của Mạng lưới toàn cầu về phòng chống các rối loạn do thiếu i-ốt cho biết, Việt Nam vẫn đang nằm trong nhóm 26 nước còn lại trên thế giới bị thiếu i-ốt. Kết quả tổng điều tra dinh dưỡng năm 2019 – 2020 cũng cho thấy, chỉ số trung vị i-ốt niệu và chỉ số hộ gia đình sử dụng muối i-ốt đủ tiêu chuẩn phòng bệnh ở nước ta đều không đạt so với khuyến cáo của tổ chức WHO.

I-ốt hóa muối ăn là giải pháp chiến lược của toàn cầu cũng như của Việt Nam.

I-ốt hóa muối ăn là giải pháp chiến lược của toàn cầu cũng như của Việt Nam.

Việt Nam sử dụng muối i-ốt ít hơn khuyến nghị của WHO

Thiếu hụt i-ốt không phải là vấn đề mới ở Việt Nam, thời kỳ đầu, cuộc điều tra dịch tễ học năm 1994 cho thấy, tình trạng thiếu i-ốt xảy ra phổ biến ở cả khu vực thành thị, nông thôn, từ vùng núi đến đồng bằng và cả các tỉnh ven biển. Đáng lo ngại, tỷ lệ trẻ em từ 8-12 tuổi bị bướu cổ lên tới 22,4%, một con số rất cao so với tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), vốn chỉ khuyến nghị tỷ lệ bướu cổ dưới 5%.

Năm 1994, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 481/TTg về việc tổ chức và vận động toàn dân ăn muối i-ốt nhằm khắc phục kịp thời tình hình đáng báo động đó. Đến năm 1999, Nghị định số 19/1999/NĐ-CP về việc sản xuất và cung ứng muối i-ốt thay thế Quyết định số 481/TTg, bắt buộc tất cả các loại muối sử dụng cho ăn uống đều phải chứa i-ốt chính thức có hiệu lực. Theo đó, trong vòng 6 năm, Việt Nam đã đạt tiêu chuẩn quốc tế về phòng ngừa các rối loạn do thiếu i-ốt. Tỷ lệ bao phủ muối i-ốt trong cộng đồng đạt hơn 90%, mức trung vị i-ốt niệu trên cả nước vượt 100 mcg/l – mức khuyến cáo của WHO để phòng ngừa các bệnh liên quan đến thiếu i-ốt. Năm 2005, tỷ lệ bướu cổ ở trẻ em cũng giảm xuống dưới 5%.

Tuy nhiên năm 2005, Việt Nam chuyển sang một cơ chế quản lý mới và không còn bắt buộc sử dụng muối i-ốt trong chế biến thực phẩm. Điều này dẫn đến sự sụt giảm đáng kể trong tỷ lệ sử dụng muối i-ốt, kéo theo sự gia tăng các trường hợp rối loạn do thiếu hụt i-ốt. Theo báo cáo đánh giá 9 năm sau khi nới lỏng quy định, tỷ lệ bao phủ muối i-ốt đủ tiêu chuẩn phòng bệnh chỉ còn dưới 50%, mức trung vị i-ốt niệu giảm xuống còn 84 mcg/l – thấp hơn rất nhiều so với mức an toàn của WHO. Đáng lo ngại hơn, tỷ lệ bướu cổ ở trẻ em tăng lên 8,3%, gần gấp đôi so với năm 2005 khi chúng ta tuyên bố thành công trong việc giảm tình trạng này.

Theo các chuyên gia y tế, việc bổ sung i-ốt vào muối ăn là một biện pháp đơn giản nhưng rất quan trọng trong việc ngăn chặn các rối loạn sức khỏe do thiếu hụt i-ốt, được áp dụng thành công tại nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, việc tăng cường vi chất vào thực phẩm nói chung và muối i-ốt nói riêng làm gia tăng chi phí sản xuất của các cá nhân, doanh nghiệp chế biến thực phẩm. Bởi vậy, các doanh nghiệp từng đưa ra các ý kiến trái chiều về việc áp dụng i-ốt trong chế biến thực phẩm. Điều này gây ra những hệ quả tiêu cực tiềm tàng cho sức khỏe cộng đồng.

Cơ thể cần hàm lượng i-ốt như thế nào?

TS.BS Phan Hướng Dương - Phó Giám đốc Bệnh viện Nội tiết Trung ương cho biết, chỉ có các khu vực Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ đạt mức trung vị i-ốt niệu trên 100 mcg/l. Các vùng khác, bao gồm duyên hải miền Trung (khu vực ven biển), vẫn đang đối mặt với tình trạng thiếu hụt i-ốt. Cụ thể, mức trung vị i-ốt niệu ở các khu vực như sau: Tây Nguyên đạt 118,5 mcg/l, Đồng bằng sông Hồng là 89 mcg/l, khu vực Bắc Trung Bộ, Duyên hải miền Trung là 95 mcg/l, Đông Nam Bộ đạt 107 mcg/l, Đồng bằng Sông Cửu Long là 93 mcg/l.

Theo tổ chức WHO, nếu thiếu i-ốt nặng sẽ gây tăng tỷ lệ cường giáp trên những bệnh nhân tuyến giáp tự miễn. Sau 5 - 10 năm bổ sung i-ốt thường xuyên, tỷ lệ mắc cường giáp sẽ suy giảm, tương ứng với những vùng không bị thiếu i-ốt.

I-ốt là thành phần thiết yếu để tuyến giáp tổng hợp hormone giúp duy trì các chức năng sinh lý cơ bản, bao gồm phát triển trí tuệ và thể lực. Theo các chuyên gia y tế, trẻ em và phụ nữ độ tuổi sinh đẻ là đối tượng nguy cơ cao dễ bị thiếu hụt iốt. Khi cơ thể bị thiếu iốt sẽ dẫn đến mắc bệnh bướu cổ và tình trạng đần độn. Với bệnh bướu cổ, có thể xảy ra ở bất kỳ giai đoạn nào trong cuộc đời. Còn tình trạng đần độn có thể xảy ra ngay từ khi em bé còn nằm trong bụng mẹ (nếu người mẹ mang thai bị thiếu hụt i-ốt trầm trọng). Với trẻ em, những ảnh hưởng sức khỏe có thể xảy ra khi cơ thể thiếu hụt iốt như: làm chậm phát triển trí tuệ, chậm lớn, kém linh hoạt, các khuyết tật về thần kinh, suy giảm hoạt động chức năng hệ thần kinh, tâm thần... Ngoài ra, thiếu i-ốt cũng có thể gây các bệnh lý về tuyến giáp như bướu cổ và suy giáp, dẫn đến mệt mỏi, suy nhược và giảm năng suất lao động.

Nhiều chuyên gia y tế cho rằng, thừa I-ốt thực sự là trường hợp hiếm và thường chỉ xuất hiện khi bổ sung quá nhiều qua các loại thực phẩm chức năng hoặc thuốc.

Bộ Y tế đang lấy ý kiến các tổ chức, doanh nghiệp đối với dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 09/2016/NĐ-CP ngày 28/1/2016 của Chính phủ quy định về tăng cường vi chất dinh dưỡng vào thực phẩm. Theo đó, đối với quy định của khoản 1, Điều 6 của Nghị định, Bộ Y tế đề nghị giữ nguyên quy định về các thực phẩm bắt buộc tăng cường vi chất dinh dưỡng tương ứng, gồm muối dùng để ăn trực tiếp, dùng trong chế biến thực phẩm phải được tăng cường i-ốt…

Bộ Y tế cũng cho biết chưa nhận được bất kỳ bằng chứng khoa học nào của doanh nghiệp liên quan đến việc sử dụng muối tăng cường i-ốt bị biến đổi về màu sắc, mùi vị hoặc ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe người tiêu dùng.

Sử dụng thực phẩm bổ sung i-ốt không gây cường giáp

Trước thông tin dùng thực phẩm bổ sung i-ốt làm gia tăng bệnh về tuyến giáp do thừa vi chất này, Bộ Y tế cho biết, đây là thông tin thiếu cơ sở khoa học gây hoang mang dư luận.

Kết quả tổng điều tra dinh dưỡng năm 2019 – 2020 cũng cho thấy, chỉ số trung vị i-ốt niệu và chỉ số hộ gia đình sử dụng muối i-ốt đủ tiêu chuẩn phòng bệnh ở nước ta đều không đạt so với khuyến cáo của tổ chức WHO. Đặc biệt, tỷ lệ người có nồng độ i-ốt niệu vượt quá ngưỡng 300 ppm là 0% (ngưỡng trên 300 ppm là ngưỡng có i-ốt niệu cao).

Bộ Y tế khẳng định, quần thể người dân Việt Nam vẫn còn chưa đạt đủ lượng i-ốt tiêu thụ hàng ngày so với khuyến nghị. Đến nay, cũng chưa có y văn nào đề cập đến chương trình sử dụng muối i-ốt toàn dân (từ năm 1994 đến nay) dẫn đến hệ quả về bệnh lý tuyến giáp. Ngoài ra, các báo cáo của Bệnh viện Nội tiết Trung ương và Viện Dinh dưỡng quốc gia cũng chưa ghi nhận trường hợp bệnh nhân thừa i-ốt ở nước ta.

Các chuyên gia cho biết, cường giáp là bệnh tự miễn, điều trị nội khoa bằng thuốc kháng giáp trạng tổng hợp là chủ yếu. Ung thư tuyến giáp là bệnh ác tính thường gặp nhất của hệ nội tiết, đang có xu hướng gia tăng trên toàn cầu.

Theo PGS.TS Trần Thanh Dương, Viện trưởng Viện Dinh dưỡng quốc gia, i-ốt hóa muối ăn là giải pháp chiến lược của toàn cầu cũng như của Việt Nam. Trong bối cảnh thiếu hụt I-ốt vẫn là vấn đề sức khỏe cộng đồng, việc sử dụng muối i-ốt là giải pháp thiết yếu và an toàn. Do đó, mỗi người dân cần hiểu rõ và ủng hộ chính sách bổ sung i-ốt, đồng thời tăng cường sử dụng muối i-ốt để đảm bảo sức khỏe cho bản thân và gia đình.

THANH MAI

Nguồn Đại Đoàn Kết: https://daidoanket.vn/nhieu-benh-phat-sinh-khi-co-the-thieu-i-ot-10294652.html