Nhiều cơ quan tưởng liên quan nhưng lại vô can trong vụ Vạn Thịnh Phát giai đoạn 2

Trong thời gian dài, những vi phạm về trái phiếu, rửa tiền, vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới của Trương Mỹ Lan không bị phát hiện; tuy vậy, Cơ quan điều tra Bộ Công an xác định nhiều cơ quan không liên can đến các sai phạm này.

Trong giai đoạn 2 vụ án Vạn Thịnh Phát, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã kết luận Trương Mỹ Lan và các đồng phạm có hành vi vi phạm pháp luật gồm lừa đảo chiếm đoạt tài sản sản, rửa tiền, vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới.

Bên cạnh việc làm rõ hành vi của 34 bị can trong vụ án, CQĐT làm rõ vai trò, trách nhiệm của các cơ quan quản lý, các đơn vị liên quan.

 Bà Trương Mỹ Lan tại phiên tòa sơ thẩm vụ án Vạn Thịnh Phát giai đoạn 1. Ảnh: PLO

Bà Trương Mỹ Lan tại phiên tòa sơ thẩm vụ án Vạn Thịnh Phát giai đoạn 1. Ảnh: PLO

UBCK và HNX không bảo kê

Thứ nhất, ở hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong việc phát hành 25 gói trái phiếu “khống” không có tài sản đảm bảo, mất khả năng thanh toán, có hơn 35.000 nhà đầu tư bị chiếm đoạt hơn 30.000 tỉ đồng thông qua các gói trái phiếu này.

Các cơ quan quản lý liên quan là Ủy ban chứng khoán Nhà nước (UBCK) và Sở GDCK Hà Nội (HNX).

CQĐT xác định 4 công ty thuộc hệ sinh thái Vạn Thịnh Phát đứng ra phát hành trái phiếu theo chủ trương của Trương Mỹ Lan không phải công ty đại chúng nên không thuộc phạm vi quản lý, giám sát, thanh tra và chấp thuận cho phép phát hành trái phiếu của UBCK cùng HNX.

Pháp luật cũng không có quy định nào buộc 2 đơn vị này giám sát việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ và sử dụng tiền đúng mục đích phát hành.

“Chưa có thông tin, tài liệu, chứng cứ thể hiện sự thông đồng, móc ngoặc, bảo kê hoặc biết sai phạm nhưng bỏ mặc cho 4 doanh nghiệp phát hành trái phiếu của UBCKNN và HNX" - bản kết luận điều tra vụ án nêu.

Việc phân phối trái phiếu Vạn Thịnh Phát được thực hiện qua Công ty chứng khoán TVSI và Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB). Riêng Công ty chứng khoán TVSI còn vai trò tư vấn phát hành trái phiếu, đại diện người sở hữu trái phiếu.

Quá trình điều tra, CQĐT nhận được hàng ngàn đơn thư của trái chủ sở hữu trái phiếu các công ty thuộc hệ sinh thái Vạn Thịnh Phát.

Các đơn thư có nội dung tố giác Công ty Chứng khoán TVSI, SCB và các nhân viên kinh doanh của SCB có hành vi gian dối, lừa đảo, dẫn dụ khách hàng mua trái phiếu hoặc chuyển từ gửi tiết kiệm tại SCB sang ký kết hợp đồng mua trái phiếu với Công ty Chứng khoán TVSI.

Trái chủ cho rằng nhân viên không giới thiệu rõ cho khách hàng hiểu về sản phẩm trái phiếu mà nói với khách hàng đây là một hình thức tiết kiệm linh hoạt, lãi suất cao, tính thanh khoản cao, được SCB bảo lãnh thanh toán; không cho khách hàng xem trước hợp đồng mua bán trái phiếu mà hướng dẫn khách hàng chuyển tiền vào tài khoản Công ty Chứng khoán TVSI rồi sau vài tuần mới trả hợp đồng cho khách hàng ký...

Đối với SCB, theo CQĐT, qua kiểm tra nội dung tài liệu tập huấn, cũng như các kế hoạch, chương trình triển khai công tác tư vấn, bán hàng của SCB thấy nội dung tài liệu tập huấn, tư vấn là chính thống, đúng quy định pháp luật, chưa thấy có dấu hiệu của việc tư vấn, đào tạo những nội dung sai sự thật nhằm lừa đảo, dẫn dụ khách hàng mua trái phiếu để chiếm đoạt.

Mặt khác, kết quả điều tra xác định cũng xác định những nhân viên thuộc Hội sở SCB trực tiếp tham gia vào việc hợp tác với Công ty Chứng khoán TVSI, xây dựng chương trình đào tạo, tập huấn và hơn 2000 nhân viên bán hàng thuộc 239 chi nhánh SCB trên toàn quốc chỉ thực hiện công việc theo quy trình làm việc của SCB.

Đối với Công ty TVSI, theo Nghị định 163/2018 thì tổ chức tư vấn phát hành, bảo lãnh và lưu ký trái phiếu chỉ thực hiện việc tư vấn phát hành và các nghiệp vụ phát sinh theo hợp đồng.

CQĐT kết luận TVSI không có thẩm quyền và trách nhiệm phải kiểm tra, giám sát về tình hình tài chính, mục đích phát hành, việc sử dụng tiền huy động vốn từ trái phiếu cũng như những vấn đề nội bộ của đơn vị phát hành trái phiếu.

Không đủ căn cứ xem xét trách nhiệm Cục Phòng chống rửa tiền

Ở hành vi rửa tiền, Trương Mỹ Lan bị cáo buộc đã chỉ đạo các đối tượng rút tiền mặt hoặc chuyển khoản lòng vòng để che giấu nguồn gốc tiền phạm tội đối với số tiền 445.747 tỉ đồng, trong đó có 415.666 tỉ đồng từ nguồn tiền phạm tội tham ô tài sản của SCB và 30.081 tỉ đồng từ nguồn tiền do phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Cùng với đó là hành vi vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới đối với số tiền 4,5 tỉ USD, tương đương 106.730 tỉ đồng.

Điều tra về trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước, CQĐT xác định Cục Phòng chống rửa tiền Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng (NHNN) có trách nhiệm tiếp nhận thông tin, báo cáo về phòng chống rửa tiền và phân tích, xử lý báo cáo, thông tin nghi ngờ liên quan đến rửa tiền.

Thực hiện Luật Phòng chống rửa tiền, từ năm 2012-2022, SCB đã báo cáo các giao dịch lớn, các giao dịch chuyển tiền điện tử quốc tế, các giao dịch đáng ngờ được thực hiện qua ngân hàng trong đó có các giao dịch vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới trong vụ án này.

Trước thời điểm khởi tố vụ án ngày 7-10-2022, các công ty thuộc Tập đoàn Vạn Thịnh Phát chuyển tiền ra nước ngoài và nhận tiền về không nằm trong danh sách “đen”, là đối tượng bị điều tra truy tố xét xử, không nằm trong danh sách cảnh báo của NHNN và của các quốc gia khác…

Do đó, Cục Phòng chống rửa tiền không có cơ sở để xác định hơn 313.000 giao dịch chuyển tiền điện tử có giao dịch liên quan đến hoạt động rửa tiền, vận chuyển tiền của hệ sinh thái Vạn Thịnh Phát.

Còn 151 báo cáo giao dịch đáng ngờ mà SCB gửi lên, không có danh sách các công ty thuộc Vạn Thịnh Phát chuyển tiền đi, nhận tiền về nên Cục không có cơ sở để phân tích, nghi ngờ.

CQĐT kết luận không có căn cứ xem xét trách nhiệm của Cục Phòng chống rửa tiền, Vụ Quản lý ngoại hối trong việc các đối tượng, công ty thuộc Vạn Thịnh Phát và SCB làm trái quy định về chuyển tiền quốc tế.

BÙI TRANG

Nguồn PLO: https://plo.vn/nhieu-co-quan-tuong-lien-quan-nhung-lai-vo-can-trong-vu-van-thinh-phat-giai-doan-2-post795007.html