Nhiều điểm mới trong xử lý vi phạm quy định về tập trung kinh tế

Nhiều điểm mới liên quan đến xử lý vi phạm quy định về tập trung kinh tế được thể hiện trong dự thảo sửa đổi Nghị định số 75/2019/NĐ-CP mà Bộ Công Thương soạn thảo.

Một số bất cập trong các quy định hiện hành

Theo Bộ Công Thương (cơ quan soạn thảo dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 75/2019/NĐ-CP ngày 26 tháng 9 năm 2019 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh), thực tiễn thực thi các quy định liên quan đến công tác giám sát, điều tra và xử lý các vụ việc vi phạm quy định về tập trung kinh tế (TTKT) đã cho thấy còn tồn tại một số khó khăn, bất cập.

Cụ thể như việc xác định thị trường liên quan trong một số trường hợp. Theo quy định tại khoản 1 và 2 Điều 111 Luật Cạnh tranh, căn cứ xác định mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm quy định về hạn chế cạnh tranh và TTKT là tỷ lệ phần trăm tổng doanh thu trên thị trường liên quan của doanh nghiệp vi phạm.

Tuy nhiên, trong một số trường hợp, thị trường liên quan không thể được xác định theo quy định hướng dẫn tại Mục 1 Chương II Nghị định số 35/2020/NĐ- CP ngày 24 tháng 3 năm 2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Cạnh tranh, chẳng hạn như trong trường hợp các doanh nghiệp tham gia TTKT là các doanh nghiệp không trên cùng thị trường liên quan; không kinh doanh ở các công đoạn khác nhau trong cùng một chuỗi sản xuất, phân phối, cung ứng đối với một loại hàng hóa, dịch vụ nhất định và không có ngành, nghề kinh doanh là đầu vào của nhau hoặc bổ trợ cho nhau.

Pháp luật cạnh tranh Việt Nam quy định về việc kiểm soát hành vi tập trung kinh tế của các doanh nghiệp. Ảnh minh họa

Pháp luật cạnh tranh Việt Nam quy định về việc kiểm soát hành vi tập trung kinh tế của các doanh nghiệp. Ảnh minh họa

Với quy định về mức phạt tiền đối với hành vi không thông báo TTKT về bản chất, việc không thông báo tập trung kinh tế là hành vi vi phạm thủ tục hành chính, không trực tiếp gây ra hậu quả hạn chế cạnh tranh. Tuy nhiên, khung phạt tiền đối với hành vi này hiện được quy định tương đương với khung phạt tiền của các hành vi vi phạm quy định về TTKT bị cấm khác, tạo nên sự thiếu cân đối trong chính sách xử lý vi phạm, không phù hợp với nguyên tắc phân hóa mức độ vi phạm theo tính chất và hậu quả của hành vi được quy định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính cũng như chưa phù hợp với thông lệ quốc tế trong xử lý các hành vi vi phạm quy định về TTKT.

Hay đối tượng xử phạt chưa được xác định rõ ràng để áp dụng các quy định xử phạt thích hợp. Theo Điều 14 Nghị định số 75/2019/NĐ-CP, chủ thể bị xử phạt đối với hành vi không thông báo TTKT là “từng doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế”. Tuy nhiên, hiện nay chưa có quy định như thế nào là “doanh nghiệp tham gia TTKT”.

Trong một số trường hợp, chỉ có bên mua và bên bán tham gia thỏa thuận về việc thực hiện giao dịch tập trung kinh tế trong khi doanh nghiệp mục tiêu không tham gia ký kết thỏa thuận. Ví dụ, trong một số giao dịch mua lại ngành nghề kinh doanh, bên bán có thể là những doanh nghiệp lớn nắm giữ tài sản mục tiêu là phần vốn góp tại rất nhiều các doanh nghiệp thành viên. Do đó, khi bên mua muốn mua toàn bộ tài sản của bên bán trong một ngành nghề kinh doanh, chỉ có thỏa thuận giữa bên mua và bên bán mà không có sự tham gia của các doanh nghiệp mục tiêu trong những thỏa thuận này.

Chưa có chế tài cụ thể đối với hành vi thiếu trung thực trong quá trình thông báo TTKT. Theo khoản 2 Điều 34 Luật Cạnh tranh, doanh nghiệp nộp hồ sơ thông báo TTKT chịu trách nhiệm về tính trung thực của hồ sơ. Tuy nhiên, Nghị định số 75/2019/NĐ-CP chưa có quy định về xử phạt đối với hành vi cung cấp thông tin không trung thực trong hồ sơ thông báo TTKT và biện pháp khắc phục hậu quả. Do đó, cần bổ sung quy định đối với hành vi này để bảo đảm tính đầy đủ và hiệu quả của quy định.

Thiếu quy định về biện pháp khắc phục hậu quả đối với các vụ việc vi phạm quy định về TTKT. Một trong những hành vi vi phạm quy định về TTKT là hành vi doanh nghiệp không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ điều kiện được thể hiện trong quyết định về TTKT quy định tại điểm b khoản 1 Điều 41 Luật Cạnh tranh. Đối với những trường hợp doanh nghiệp thực hiện hành vi vi phạm thuộc dạng này, việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả phù hợp là cần thiết nhằm góp phần khôi phục trạng thái ban đầu của thị trường, giảm thiểu tác động có thể gây tổn hại đến môi trường cạnh tranh. Trong số 11 biện pháp khắc phục hậu quả hiện nay quy định tại khoản 3 Điều 3 Nghị định số 75/2019/NĐ-CP, chưa có biện pháp khắc phục hậu quả liên quan đến việc buộc thực hiện đầy đủ điều kiện được thể hiện trong quyết định về TTKT quy định tại điểm b khoản 1 Điều 41 Luật Cạnh tranh.

Đề xuất nhiều nội dung sửa đổi

Liên quan đến việc sửa đổi một số quy định về TTKT, dự thảo Nghị định đề xuất sửa đổi, bổ sung một số điểm của khoản 3 Điều 3 theo hướng: (i) quy định rõ nội hàm của biện pháp khắc phục hậu quả trong việc cung cấp thông tin, tài liệu và (ii) bổ sung biện pháp khắc phục hậu quả “Buộc thực hiện đầy đủ điều kiện được thể hiện trong quyết định về TTKT quy định tại điểm b khoản 1 Điều 41 Luật Cạnh tranh” nhằm thể hiện đúng ý nghĩa của việc quy định biện pháp khắc phục hậu quả, đồng thời đảm bảo việc TTKT không làm tổn hại đến môi trường cạnh tranh.

Bộ Công Thương đề xuất sửa đổi, bổ sung một số khoản của Điều 4 về mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm hành chính về cạnh tranh. Sửa đổi, bổ sung Điều 14 về hành vi không thông báo TTKT theo hướng xác định cụ thể mức phạt tiền tương ứng đối với từng trường hợp doanh nghiệp thuộc ngưỡng hoặc không thuộc ngưỡng phải thông báo TTKT theo quy định của Luật Cạnh tranh và Nghị định số 35/2020/NĐ-CP ngày 24 tháng 3 năm 2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Cạnh tranh, đảm bảo mức phạt tiền phù hợp với tính chất và mức độ của hành vi vi phạm. Sửa đổi, bổ sung Điều 15 về hành vi vi phạm pháp luật về TTKT khác theo cách tiếp cận có tính logic với quy định sửa đổi, bổ sung tại Điều 14.

Bên cạnh đó, Bộ Công Thương cũng đề xuất quy định bổ sung 03 khoản tiếp theo vào sau khoản 2 tại Điều này nhằm cụ thể hóa các quy định về việc áp dụng một hoặc một số biện pháp khắc phục hậu quả tương ứng với tính chất, mức độ của hành vi vi phạm. Đề xuất mức phạt tiền đối với các hành vi TTKT thuộc trường hợp bị cấm cao hơn mức phạt tiền đối với các hành vi thuộc trường hợp vi phạm quy định về TTKT khác để đảm bảo tính răn đe và nghiêm minh của các chế tài xử phạt. Đồng thời, đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định về mức phạt từ theo tỷ lệ phần trăm doanh thu sang mức phạt tiền theo giá trị tuyệt đối bằng tiền.

Việc đề xuất mức phạt tiền theo giá trị tuyệt đối bằng tiền, nhưng không vượt ngưỡng tối đa 5% tổng doanh thu trên thị trường liên quan trong năm tài chính liền kề trước năm thực hiện hành vi vi phạm là có căn cứ, cơ sở pháp lý, tương ứng với tính chất, mức độ vi phạm, phù hợp với quy mô hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và thông lệ quốc tế.

Dự thảo cũng đề xuất sửa đổi, bổ sung Điều 22 về hành vi vi phạm quy định về cung cấp thông tin, tài liệu theo hướng nâng mức phạt tiền tại khoản 2; đồng thời mở rộng chủ thể áp dụng, theo đó cho phép phạt tiền đối với các bên tham gia tập trung kinh tế, các bên nộp hồ sơ thông báo tập trung kinh tế, các bên nộp hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm bên cạnh các chủ thể như tại quy định hiện nay (bên bị điều tra, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ việc cạnh tranh).

Ngoài ra, Bộ Công Thương đề xuất sửa đổi, bổ sung khoản 4 nhằm thể hiện cụ thể hơn nội hàm của biện pháp khắc phục hậu quả và đề xuất bổ sung khoản 5 để quy định chế tài áp dụng trong trường hợp hành vi vi phạm quy định về cung cấp thông tin, tài liệu gây ảnh hưởng đến việc kiểm tra tính đầy đủ, hợp lệ của hồ sơ thông báo tập trung kinh tế; ảnh hưởng kết quả thẩm định sơ bộ việc tập trung kinh tế hoặc quyết định về việc tập trung kinh tế của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia.

Sửa đổi, bổ sung một số điểm thuộc khoản của Điều 26 về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về tập trung kinh tế và cạnh tranh không lành mạnh theo hướng bãi bỏ hình thức xử phạt bổ sung “Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề hoặc đình chỉ hoạt động từ 06 tháng đến 12 tháng” và “Tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm” quy định tại khoản 3; đồng thời đề xuất bãi bỏ hình thức xử phạt “Cảnh cáo” tại khoản 1. Đề xuất trên nhằm phù hợp với tính khả thi khi áp dụng trong thực tiễn đối với các vụ việc vi phạm quy định về tập trung kinh tế và cạnh tranh không lành mạnh…

Sau hơn 5 năm thực thi, Nghị định số 75/2019/NĐ-CP đã bộc lộ một số điểm hạn chế, bất cập gây cản trở cho hoạt động xử phạt vi phạm hành chính cũng như việc thực thi pháp luật về cạnh tranh nói chung và việc xử lý vi phạm quy định về TTKT nói riêng. Vì vậy việc sửa đổi Nghị định số 75/2019/NĐ-CP là cần thiết trong bối cảnh có nhiều quy định mới liên quan.

Văn Trần

Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/nhieu-diem-moi-trong-xu-ly-vi-pham-quy-dinh-ve-tap-trung-kinh-te-422372.html