Nhiều nước tăng lãi suất, vì sao Việt Nam chưa tăng?

Để đối phó với lạm phát đang tăng cao kỷ lục, nhiều ngân hàng trung ương trên thế giới đã tăng lãi suất, nhưng Việt Nam vẫn chưa có động thái tăng, nguyên nhân vì sao?

Tác động từ việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) tăng lãi suất tới kinh tế Việt Nam: “Trong nguy có cơ” Vì sao CPI 6 tháng đầu năm tăng thấp ? Lãi suất huy động tăng, lãi suất đầu ra chịu sức ép Áp lực tăng lãi suất huy động cuối năm

Đây là một chủ đề được thảo luận sôi nổi tại hội thảo: "Lạm phát, lãi suất và chứng khoán", do Hiệp hội Tư vấn Tài chính Việt Nam (VFCA) và Công ty Cổ phần Chứng khoán Nhất Việt (VFS) tổ chức với sự tham gia của nhiều chuyên gia, lãnh đạo doanh nghiệp và các lãnh đạo bộ ngành.

Tăng trưởng 7% năm nay là khả thi

Tại hội thảo, Chủ tịch VFCA Lê Long Giang cho biết, kinh tế thế giới trong 6 tháng đầu năm 2022 đang đối mặt với nhiều thách thức, chủ yếu do khủng hoảng tại Ukraine, bất định gia tăng với các lệnh trừng phạt, chuỗi cung ứng tiếp tục bị đứt gãy… Nhưng có lẽ, vấn đề nóng nhất hiện nay là lạm phát. Lạm phát đang tăng cao kỷ lục khắp các nền kinh tế thế giới vượt ngoài tầm kiểm soát và suy thoái kinh tế đang cận kề.

Tại Việt Nam, CPI bình quân 6 tháng đầu năm tăng 2,44% chủ yếu là do giá cả (xăng dầu, khí đốt, nguyên vật liệu, logistics và nhu cầu du lịch, ăn uống, đi lại … ) đều tăng, đây là thành công trong kiểm soát lạm phát của Việt Nam trước bối cảnh thế giới đang phải đối mặt với tình trạng lạm phát gia tăng ở hầu khắp các quốc gia.

TS Cấn Văn Lực phát biểu tại hội thảo.

TS Cấn Văn Lực, chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) đánh giá, sự phục hồi kinh tế của Việt Nam có độ trễ so với thế giới. Năm nay, trong khi thế giới chậm lại thì Việt Nam đã phục hồi mạnh, dự báo tăng trưởng 7% là khả thi. Mặc dù vậy, việc dự báo hiện tại là khó vì lạm phát đang bùng lên, nhiều quốc gia phải tăng lãi suất.

Thông tin từ Ngân hàng Thế giới (WB) tính toán lạm phát hiện đã ở vùng đỉnh, nếu lạm phát đã đạt đỉnh thì chúng ta sẽ có kịch bản theo chiều hướng tích cực hơn, nhưng tất nhiên không thể chủ quan, ông Cấn Văn Lực chia sẻ.

Tăng lãi suất ảnh hưởng đến chương trình phục hồi

Phát biểu trong phiên thảo luận, TS. Cấn Văn Lực cho rằng, lạm phát của nước ta ở thời điểm hiện tại không xuất phát từ vấn đề tiền tệ bởi cung tiền ở mức vừa phải. Nếu như hiện tại Ngân hàng Nhà nước tăng lãi suất điều hành chưa chắc phát huy tác dụng tốt với nền kinh tế. Cùng với đó, Chương trình phục hồi kinh tế và phục hồi kinh tế đang triển khai đã có yêu cầu giữ ổn định lãi suất. Nên nếu như chúng ta tăng lãi suất sẽ đi ngược lại với chương trình này.

Trong cơn bão lạm phát, trên thế giới đang diễn ra cuộc đua tăng lãi suất, hầu hết các quốc gia đã tăng lãi suất, trừ Trung Quốc. Đã có tới 80 lượt tăng lãi suất trên toàn cầu trong 6 tháng đầu năm 2022. Lộ trình tăng lãi suất của Mỹ dự kiến sẽ tăng gấp đôi hiện nay. Với Việt Nam, áp lực lạm phát từ giờ tới cuối năm khá lớn. Giá hàng hóa thế giới còn tăng và còn có nguy cơ nhập khẩu lạm phát, nhất là khi Việt Nam phụ thuộc nhiều vào đầu vào nhập khẩu.

Theo TS. Cấn Văn Lực, lãi suất cho vay đang chịu áp lực tăng. Nếu chúng ta để lãi suất cho vay tăng thì người dân và doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn hơn, đi ngược với chương trình phục hồi. Còn lãi suất cho vay bằng USD chắc chắn tăng theo đà tăng của thế giới. “Tôi lo rằng bây giờ tăng lãi suất sẽ khiến kinh tế suy thoái nếu tăng nhanh quá mà chưa chắc cứu được lạm phát, vì lạm phát là do đứt gãy chuỗi cung ứng. Tốc độ tăng lãi suất chưa chắc là đã thuốc đặc trị mà còn gây phản ứng phụ”, vị chuyên gia này nhận xét.

Lạm phát do chi phí đẩy, chính sách tiền tệ ít tác dụng

Đây cũng là quan điểm được một số chuyên gia đồng tình trong phần thảo luận sau đó xoay quanh chủ đề vì sao các ngân hàng trung ương trên thế giới đã tăng lãi suất mà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vẫn chưa tăng.

Toàn cảnh phiên thảo luận

Về vấn đề này, từ quan sát nền kinh tế Việt Nam hiện tại, TS. Võ Trí Thành cho rằng, trong bối cảnh hiện nay, chính sách tiền tệ không giải quyết được vấn đề lạm phát một cách hoàn hảo. Muốn xử lý tốt vấn đề lạm phát Việt Nam cũng như nhiều nước cần kết hợp các chính sách.

Theo TS. Võ Trí Thành, có vấn đề liên quan đến việc tăng lãi suất. Thứ nhất, nền kinh tế Việt Nam có nhiều điểm khác với kinh tế thế giới. Ví dụ, trong 6 tháng đầu năm 2020 Việt Nam nổi lên như một ngôi sao bởi duy trì được tăng trưởng dương. Thế nhưng, trong 6 tháng cuối năm 2021 thì ngược lại, khi kinh tế thế giới phục hồi tốt thì chúng ta lại lạc nhịp. 6 tháng đầu năm nay thế giới xấu đi nhưng Việt Nam lại phục hồi rất tốt. Chính những điểm khác biệt này khiến chúng ta không thể điều hành lãi suất như thế giới.

Thứ hai, trong chiến lược phát triển và phục hồi kinh tế, chúng ta đặt trọng tâm vào vấn đề lãi suất và tiền tệ, nên các điều hành liên quan đến vấn đề này vô cùng quan trọng, đòi hỏi chúng ta buộc phải thận trọng.

Thứ ba, mức độ mức giá của đồng Việt Nam hiện nay không quá lớn nên cần giữ ổn định tỷ giá của đồng Việt Nam.

Ngoài ra, hiện nay cán cân thanh toán quốc tế tương đối ổn định, thặng dư không quá nhiều nên việc tăng lãi suất cũng chưa phải là vấn đề cần thiết.

Còn theo TS. Lê Xuân Nghĩa, hiện nay lạm phát của Việt Nam là lạm phát do chi phí đẩy, nên vai trò của ngân hàng là nhỏ. Lạm phát này khiến chính sách lãi suất trở nên bất lực nên việc Ngân hàng Nhà nước tăng lãi suất như ngân hàng trung ương trên thế giới là điều chưa cần thiết. “Tạm thời trong quý 3 chưa nên đụng đến chính sách tiền tệ. Lãi suất mà tăng là chứng khoán gay go. Nên tôi tán thành việc duy trì tính thận trọng của chính sách tiền tệ, đảm bảo sự ổn định cho thị trường chứng khoán”, TS Lê Xuân Nghĩa nêu quan điểm.

Kinh tế phục hồi sẽ hỗ trợ thị trường chứng khoán

Theo TS Cấn Văn Lực, việc kinh tế phục hồi thì chứng khoán sẽ tốt lên. Đặc biệt là việc chu kỳ T+2 được triển khai, giúp giao dịch được thực hiện nhanh hơn cùng với việc doanh nghiệp niêm yết phục hồi khá là cơ hội đối với thị trường chứng khoán.

Về thách thức đối với lĩnh vực chứng khoán, thách thức này nằm ở 4 chữ Đ (Điều chỉnh, Đầu cơ, Đòn bẩy, Đám đông). Đặc biệt, các chính sách quản lý gần đây đã chặt chẽ hơn với thị trường chứng khoán, với việc đầu tư chứng khoán của các tổ chức tín dụng. Ngoài ra, còn có hành vi đầu tư, tiêu dùng của khách hàng thay đổi, vấn đề về chuyển đổi số, hội nhập, thao túng giá, minh bạch,...

Trước những thách thức như vậy, giải pháp đối với doanh nghiệp và nhà đầu tư được thể hiện rõ trong mô hình 6 Rs: Respond (thích ứng, linh hoạt), Recover (phục hồi càng nhanh càng tốt), Restructure (tái cấu trúc), Re-invent (đổi mới, sáng tạo), Risk management (quản lý rủi ro), Resilience (tăng sức đề kháng).

Hoàng Yến

Nguồn Thời báo Tài chính: https://thoibaotaichinhvietnam.vn/nhieu-nuoc-tang-lai-suat-vi-sao-viet-nam-chua-tang-108960.html