Nhiều PH không muốn con học ngành Du lịch vì coi đó là nghề phục vụ người khác
Theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Hồng Vân các doanh nghiệp du lịch đóng cửa sau Covid-19 khá lớn khiến cơ hội thực hành tại doanh nghiệp của sinh viên bị thu hẹp.
Du lịch là một ngành dịch vụ giàu tiềm năng phát triển, nhất là trong thời kỳ hội nhập với nhu cầu tuyển dụng nhân lực cao đồng thời có mức thu nhập hấp dẫn. Tuy nhiên, nhân lực trong ngành du lịch hiện nay vẫn chưa đáp ứng được cả về chất lượng và số lượng, nhất là sau đại dịch Covid-19.
Quy mô đào tạo của trường đại học ổn định nhưng nhân lực vẫn thiếu
Trao đổi với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thị Thục - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa cho hay, quy mô đào tạo ngành Du lịch của trường giữ ở mức ổn định kể cả trước trong hay sau đại dịch Covid-19.
“Lĩnh vực du lịch trường có 3 ngành được duy trì đào tạo hàng năm, với quy mô từ 50-70 sinh viên/ngành, tương đương 150-210 sinh viên/ năm, chưa tính đào tạo ngắn hạn.
Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa là trường địa phương nên lâu nay các bạn trẻ vẫn muốn học ở các cơ sở giáo dục đại học trọng điểm. Nhưng khi đại dịch xảy ra, nhiều em lại chọn Thanh Hóa để học. Chính vì thế quy mô của nhà trường vẫn giữ ở mức ổn định. Sau đại dịch, quy mô có xu hướng phát triển hơn”, cô Thục thông tin.
Hiện nay, nhà trường cũng đang nghiên cứu để mở rộng quy mô đào tạo trong đó có các ngành nghề thuộc lĩnh vực du lịch. Vì lĩnh vực du lịch là một trong 3 trụ cột quan trọng của nhà trường.
Cô Thục cũng cho biết thêm, mức học phí của ngành Du lịch hiện tại là 3.425.000 đồng/ học kỳ, tương đương gần 7 triệu đồng/ năm.
Trong khi đó, Tiến sĩ Nguyễn Thị Hồng Vân, Phó Trưởng Khoa Du lịch Trường Ngoại ngữ - Du lịch, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội cho hay, sau đại dịch quy mô đào tạo ngành du lịch của trường có xu hướng giảm nhưng không đáng kể.
Cụ thể, năm 2018 nhà trường đào tạo 125 sinh viên ngành Du lịch. Từ năm 2019-2021, số lượng sinh viên duy trì ổn định trong khoảng 122-125 sinh viên. Năm 2022, số lượng sinh viên giảm xuống còn 93 người. Và năm 2023 số sinh viên ngành Du lịch là 106 người.
Cũng theo cô Vân trong một vài năm tới, tăng quy mô tuyển sinh không phải ưu tiên của nhà trường. Định hướng của trường đối với ngành Du lịch cũng như những ngành khác là phát triển bền vững, phát triển theo định hướng ứng dụng. Vì vậy, trường tập trung nâng cao chất lượng toàn diện để người học có khả năng “học để biết, học để làm, học hoàn thiện bản thân, học để cùng chung sống” (theo UNESCO). Do vậy nâng cao kỹ năng nghiệp vụ, năng lực giải quyết vấn đề, tư duy quản trị và năng lực tiếng Anh là những vấn đề được trường ưu tiên.
Mức học phí ngành Du lịch của Trường Ngoại ngữ - Du lịch, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội là 415.000 đồng/ tín chỉ. Ngoài ra, theo tính chất môn học sẽ có hệ số riêng như: Lý thuyết hệ số 1; thực hành hệ số 2; tiểu luận, bài tập lớn hệ số 1; đồ án, dự án hệ số 1,4.
Dù quy mô đào tạo ở các trường tương đối ổn định nhưng nhân lực vẫn chưa đủ đáp ứng cho ngành Du lịch.
Theo thống kê của Cục Du lịch quốc gia Việt Nam, hiện nay có khoảng 350.000 người làm việc trong cơ sở lưu trú du lịch, đáp ứng 70% nhu cầu. Với số cơ sở hiện có, nếu đạt công suất trên 70% thì ngành du lịch cần có khoảng 507.000 lao động trong các cơ sở lưu trú, trong đó nhân sự quản trị cần khoảng 50.000 người. [1]
Cần nâng cao chất lượng nhân lực ngành Du lịch
Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam đánh giá, mỗi năm ngành du lịch cần khoảng 40.000 lao động mới và 25.000 lao động cần đào tạo lại. Tuy nhiên, hàng năm các trường chỉ đào tạo 20.000 sinh viên. Trong đó tỷ lệ lao động du lịch được đào tạo chuyên nghiệp còn thấp, chỉ chiếm 43% trong tổng số lao động du lịch. [2]
Điều đó đòi hỏi phải nâng cao chất lượng nhân lực hơn nữa, đáp ứng nhu cầu cung ứng nhân lực chất lượng cao cho thị trường.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Hồng Vân, nhân lực ngành Du lịch hậu Covid-19 gặp khủng hoảng chưa từng có trong tiền lệ. Các doanh nghiệp du lịch đóng cửa sau dịch tương đối lớn dẫn đến cơ hội, thời gian cho các chương trình thực hành, thực tập tại doanh nghiệp của sinh viên bị thu hẹp. Vì thế, việc liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp còn hạn chế.
Đây cũng là lý do cần nâng cao cả về chất lượng và số lượng nhân lực ngành Du lịch. Theo cô Vân, có thể thực hiện một số biện pháp sau:
Nghiên cứu dự báo nhu cầu về số lượng, chất lượng nhân lực để xây dựng kế hoạch đào tạo tại chỗ, đào tạo mới, tuyển dụng… phù hợp.
Các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp cần có sự hợp tác trong thiết kế, xây dựng chương trình đào tạo và quá trình đào tạo theo các modul để sản phẩm đào tạo luôn bắt kịp và phù hợp với nhu cầu lao động của thị trường.
Nâng cao năng lực của đội ngũ đào tạo viên tại chỗ (doanh nghiệp) cũng như giảng viên, giáo viên du lịch tại các cơ sở đào tạo.
Thu hút nhân lực du lịch cũ quay trở lại bằng các cơ chế chính sách khuyến khích người lao động (lương và phúc lợi).
Mở các khóa đào tạo nghiệp vụ du lịch, lữ hành cho sinh viên các ngành liên quan. Mở các khóa bồi dưỡng nhân lực hoạt động trong lĩnh vực du lịch.
Rà soát và thành lập mạng lưới lao động du lịch địa phương theo đầu mối các doanh nghiệp, thông qua hệ thống liên lạc linh hoạt, nhằm đảm bảo bổ sung nhân lực phù hợp.
Để nâng cao chất lượng đào tạo, nhà trường cũng chú trọng xây dựng chương trình thực hành cho sinh viên. Trong đó có các kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ cụ thể như: Nghiệp vụ lữ hành; Điều hành chương trình du lịch; Thiết kế chương trình du lịch; Tư vấn và bán sản phẩm du lịch; Hướng dẫn du lịch; Tổ chức sự kiện…
Sinh viên sẽ được học trong các phòng thực hành thiết kế chuyên biệt, hiện đại như: phòng thực hành ảo, phòng tổ chức sự kiện, phòng máy tính có các phần mềm hỗ trợ hoạt động giảng dạy như: Travel Master, Smile Bos, Smile FO…
Bên cạnh đó, sinh viên còn được thực hành kỹ năng nghề nghiệp độc lập và có sự hướng dẫn của giáo viên ở ngoài trường tại các điểm, khu du lịch, các doanh nghiệp kinh doanh du lịch theo các học phần thực hành.
Thực hành kỹ năng Nghiên cứu khoa học thông qua hệ thống các học phần chuyên đề như: Du lịch outbound, du lịch mạo hiểm, khởi nghiệp trong lĩnh vực du lịch và khóa luận.
Còn tại Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa, cô Thục cho hay chương trình đào tạo ngành Du lịch của trường có 50-60% nội dung thực hành. Đồng thời, nhà trường cũng được tỉnh Thanh Hóa đầu tư xây dựng một trung tâm thực hành du lịch và tổ chức sự kiện. Hàng năm nhà trường đều cập nhật, bổ sung chương trình tùy vào điều kiện thực tế xem ngành Du lịch đang cần những gì.
Ngoài ra, trường cũng ký hợp tác với nhiều doanh nghiệp như: Sun Group, Sao Mai Group, Vinpearl Land Nha Trang,... cũng như các khách sạn, nhà hàng trong và ngoài tỉnh để sinh viên có cơ hội thực hành trải nghiệm thực tiễn.
“Một sinh viên du lịch trong toàn khóa đào tạo ngoài việc thực hành kỹ năng tại trung tâm thực hành, các em còn được đi thực tế và thực tập 4 lần/ toàn khóa.
Rất nhiều em đến năm thứ 2 đã bắt đầu đi phụ tour. Sang năm thứ 3 ngoài giờ lên lớp hoặc nghỉ hè hay ngày lễ được nghỉ các bạn cũng nhận tour làm cho các công ty và dẫn tour rất tốt. Thực tế có những em đã có mức thu nhập rất cao, có thể phụ giúp gia đình đóng góp các khoản chi phí học tập”, cô Thục thông tin.
Tuy nhiên, theo cô Thục bất kỳ lĩnh vực nào cũng vậy, không thể đòi hỏi 100% nhân lực được đào tạo chính quy đều làm đúng chuyên ngành. Ở lĩnh vực du lịch có 2 khía cạnh, một là những người được đào tạo chính quy sẽ làm việc ở các vị trí đòi hỏi phải có chuyên môn nghiệp vụ cao nhưng một số lao động phổ thông chỉ cần qua các lớp bồi dưỡng là có thể làm việc được.
“Ví dụ như du lịch cộng đồng chúng ta không thể đòi hỏi người dân phải có bằng trung cấp hay cao đẳng, đại học được. Đó cũng là một đối tượng lao động trực tiếp trong hoạt động du lịch. Vấn đề là để người dân hiểu được như thế nào là du lịch thì cần cho họ tìm hiểu qua các lớp tập huấn của các cơ quan đơn vị.
Và dù được đào tạo chính quy hay không thì người làm trong lĩnh vực du lịch cũng cần được đào tạo bồi dưỡng. Nhưng ở đây có sự phân biệt rõ ràng về vị trí việc làm giữa người được đào tạo bài bản và người chưa qua đào tạo. Ví dụ như lễ tân hay quản lý nhà hàng khách sạn phải qua đào tạo thì mới có đủ chuyên môn nghiệp vụ để làm việc”, cô Thục nhấn mạnh.
Ngoài ra, nhà trường cũng có những chính sách thu hút để mời các thầy cô có trình độ cao về công tác tại trường. Cụ thể, đối với tiến sĩ ngoài được hưởng mọi quyền lợi như giảng viên hiện nay đang hưởng thì nhà trường sẽ thưởng thêm 100 triệu đồng. Với phó giáo sư mức thưởng là 200 triệu đồng.
Cơ hội việc làm rộng mở, thu nhập hấp dẫn
Theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Hồng Vân, ngành Du lịch có vị trí nghề nghiệp phong phú, đa dạng. Mức lương so với các ngành khác có phần cao hơn nếu tính theo ngày lương và thu nhập của người lao động sau khi ra trường. Cụ thể, lương hướng dẫn viên du lịch trung bình khoảng 500.000 đồng/ ngày, thậm chí cao hơn. Lương nhân viên điều hành du lịch có thể dao động từ 15 - 20 triệu đồng/ tháng.
Trong khi đó, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa khẳng định: Sau đại dịch cơ hội việc làm của ngành du lịch rất lớn vì trong 3 năm đại dịch ngành Du lịch bị đứt gãy về chuỗi cung ứng nguồn nhân lực.
Một bộ phận không nhỏ những người được đào tạo du lịch đã phải chuyển sang một lĩnh vực khác trong đại dịch. Khi chuyển sang lĩnh vực mới 3 năm thì công việc của họ đã ổn định nên người ta sẽ không quay lại ngành Du lịch nữa.
“Về mặt nhu cầu thì du lịch lúc nào cũng cần nhân lực và sau đại dịch thì còn cần hơn, nhất là những người có trình độ chuyên môn và được đào tạo một cách bài bản. Thế nên gần như sinh viên của trường không thiếu việc làm. Thậm chí nhiều em còn lựa chọn việc làm.
Đến kỳ nghỉ hè nhà trường cũng gửi sinh viên đi thực tập ở các tập đoàn lớn để các em có thêm kỹ năng. Quá trình thực tập như vậy các doanh nghiệp trả mức khởi điểm làm trong hè khoảng 5-6 triệu đồng/ sinh viên kèm chi phí ăn ở. Còn những sinh viên đi dẫn tour cũng có mức lương cơ bản và thu nhập khác tùy theo số lượng tour mà các bạn dẫn. Có bạn thu nhập 15-20 triệu đồng/ tháng, có bạn hơn 20 triệu đồng/ tháng", cô Thục chia sẻ.
Tuy nhiên, theo cô Thục có một khó khăn là tâm lý của người dân, nhất là khu vực vùng sâu, vùng xa, người dân không muốn cho con em lựa chọn ngành Du lịch. Bởi họ cho rằng đó là nghề dịch vụ, nghề phải phục vụ người khác.
Được biết, hiện nay cả nước có 192 cơ sở đào tạo ngành Du lịch. Trong đó, có 62 trường đại học, 10 trường cao đẳng chuyên ngành đào tạo du lịch, 45 trường cao đẳng có ngành du lịch và 75 trường trung cấp, trung tâm dạy nghề.
Tài liệu tham khảo:
[1] https://vov.vn/du-lich/nhan-luc-du-lich-viet-nam-thieu-hut-lon-sau-covid-19-post1034849.vov
[2] https://bvhttdl.gov.vn/nang-cao-chat-luong-phat-trien-nguon-nhan-luc-du-lich-trong-boi-canh-moi-20230726153632871.htm