Nhìn lại dấu ấn 80 năm xây dựng đất nước - đóng góp của ngành cao su Việt Nam
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sự kiện vĩ đại này không chỉ đánh dấu một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam, thoát khỏi xiềng xích nô lệ của thực dân và phát xít, mà còn là nguồn cảm hứng bất tận cho các phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới.
Bản Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là lời khẳng định chủ quyền, độc lập của một quốc gia, mà còn là tiếng nói của khát vọng tự do, công lý, và quyền con người, mở ra một trang sử hào hùng, đặt nền móng vững chắc cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong suốt 80 năm qua. Trong hành trình ấy, ngành Cao su Việt Nam đã ghi dấu những đóng góp to lớn, bền bỉ, khẳng định vị thế là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, đồng hành cùng đất nước qua bao thăng trầm lịch sử.

Việc thành lập Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng đồn điền cao su Phú Riềng vào đêm 28/10/1929, đánh dấu bước ngoặt lớn. Trong ảnh: Tưởng niệm trước tượng đài Phú Riềng Đỏ.
Ngành Cao su Việt Nam trong hành trình giành độc lập dân tộc (1929-1975)
Ngành Cao su Việt Nam ra đời từ cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp đưa cây cao su vào trồng thí nghiệm tại Sài Gòn vào năm 1863, sau đó mở rộng thành các đồn điền lớn ở miền Nam. Dưới sự cai trị hà khắc của thực dân Pháp, những người công nhân cao su phải chịu đựng cuộc sống lao động khổ sai, với cường độ 13-14 giờ mỗi ngày, trong điều kiện chật chội, ẩm thấp, thiếu thốn, bệnh tật hoành hành. Từ năm 1930 đến 1935, ước tính có đến 55% tổng số công nhân cao su ở miền Đông Nam Bộ mắc sốt rét và bệnh sâu quảng, nhiều người đã bỏ mạng tại các đồn điền được ví như "địa ngục trần gian".
Chính trong hoàn cảnh bị áp bức tột cùng, phong trào đấu tranh của công nhân cao su đã nhen nhóm và phát triển mạnh mẽ. Từ những cuộc vùng dậy tự phát, họ dần đi đến đấu tranh tự giác dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điển hình là việc thành lập Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng đồn điền cao su Phú Riềng vào đêm 28/10/1929, đánh dấu bước ngoặt lớn, từ đó Đảng Cộng sản nắm ngọn cờ lãnh đạo phong trào công nhân cao su. Các cuộc bãi công, biểu tình diễn ra sôi nổi tại nhiều đồn điền như Phú Riềng, Michelin, Dầu Giây, An Lộc, Quản Lợi... đòi quyền dân chủ, dân sinh, chống thực dân đế quốc và ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc. Mặc dù đối mặt với sự đàn áp dã man của kẻ thù, phong trào vẫn kiên cường phát triển, góp phần quan trọng vào thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khi toàn bộ các đồn điền cao su đều về tay công nhân.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, công nhân cao su tiếp tục phát huy tinh thần yêu nước và đấu tranh cách mạng. Sau Cách mạng Tháng Tám, ngành cao su gặp nhiều khó khăn khi gần 5.000 ha vườn cây bị bỏ hoang, nhà máy đóng cửa, 55.000 công nhân thất nghiệp. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Tổng Công đoàn Việt Nam và Liên đoàn cao su, công nhân đã tiếp quản cơ sở vật chất, tăng gia sản xuất, và thành lập lực lượng tự vệ để chống lại sự tái chiếm của thực dân Pháp. Họ tham gia "Mặt trận cao su chiến", tổ chức phá hoại sản xuất cao su của địch, gây thiệt hại lớn cho tư bản Pháp, đồng thời tham gia phục vụ chiến đấu và chiến đấu chống quân xâm lược. Trong kháng chiến chống Mỹ, công nhân cao su miền Nam tiếp tục đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ, cải thiện đời sống, xây dựng lực lượng chính trị, vũ trang và căn cứ địa cách mạng. Đến ngày 30/4/1975, tất cả các đồn điền cao su trên toàn miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đánh dấu sự đóng góp to lớn của ngành vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc.

Ngành cao su Việt Nam phát triển mạnh mẽ, mở rộng diện tích.
Đóng góp của ngành Cao su Việt Nam vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước (1975-2024)
Sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất, ngành cao su đứng trước nhiều thách thức lớn. Diện tích cao su ở miền Nam còn lại 42.076 ha, nhiều vườn cây đã già cỗi, máy móc hư hại nặng nề. Tuy nhiên, với tinh thần lao động hăng say và ý chí phục hồi sản xuất, công nhân cao su đã nhanh chóng trở lại đồn điền, khôi phục sản xuất. Năm 1976, toàn ngành đã đưa 25.000 ha vào khai thác, khai hoang thêm 18.000 ha (dù phải đối mặt với nguy hiểm từ bom mìn còn sót lại), và đạt sản lượng 36.590 tấn mủ các loại.
Ngày 11/3/1977, Tổng cục Cao su được chuyển thành Tổng công ty Cao su trực thuộc Bộ Nông nghiệp, với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và quản lý tất cả các vườn cao su. Ngành đã triển khai chương trình hợp tác trồng mới 50.000 ha cao su với Liên Xô và Bulgaria, mở rộng diện tích ra Tây Nguyên, nâng tổng diện tích lên 77.000 ha vào cuối năm 1980, với sản lượng đạt 198.000 tấn mủ khô, xuất khẩu 153.000 tấn. Trong giai đoạn 1981-1985, ngành cao su được xác định là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, với sự ra đời của Binh đoàn 23 và việc mở rộng 18 công ty cao su, tạo việc làm cho 140.000 người vào cuối năm 1985.
Bước vào thời kỳ đổi mới (từ năm 1986), ngành cao su chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang tự chủ sản xuất kinh doanh, vận hành theo cơ chế thị trường. Năm 1989, Tổng Công ty Cao su Việt Nam được thành lập, có nhiệm vụ trồng, chăm sóc, khai thác, chế biến mủ cao su, thu mua nguyên liệu, sản xuất các sản phẩm từ cao su để xuất khẩu và phục vụ nhu cầu trong nước. Ngành đã khắc phục những yếu kém, cải tiến quản lý, chú trọng chính sách và cải thiện đời sống công nhân, xây dựng nhà ở và các công trình phúc lợi. Đến năm 1995, Tổng Công ty Cao su Việt Nam chính thức hoạt động theo mô hình doanh nghiệp nhà nước, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong những năm đầu thế kỷ XXI (2001-2005), ngành cao su Việt Nam phát triển mạnh mẽ, mở rộng diện tích không chỉ ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ mà còn sang các tỉnh miền Trung, Tây Bắc Việt Nam, Lào và Campuchia. Năng suất cao su được nâng lên đáng kể, đạt từ 2 đến 3 tấn/ha, và giá bán sản phẩm luôn ở mức cao. Đến năm 2006, với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam được thành lập (chính thức chuyển đổi sang mô hình công ty cổ phần vào năm 2018). Hiện nay, Tập đoàn quản lý 115 công ty, với tổng diện tích vườn cây gần 400.000 ha (trong đó có mặt tại Campuchia và Lào), tạo việc làm và thu nhập ổn định cho trên 81.800 lao động.
Tập đoàn tập trung vào 6 lĩnh vực kinh doanh chính: trồng, chế biến, kinh doanh cao su; chế biến gỗ; sản phẩm công nghiệp cao su; đầu tư kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp; và nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; Năng lượng sạch và tái tạo. Mỗi năm, Tập đoàn sản xuất bình quân hơn 500.000 tấn cao su các loại. Không chỉ là một đơn vị kinh tế mũi nhọn đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế quốc gia, Tập đoàn còn có vai trò quan trọng trong đảm bảo an ninh quốc phòng, đóng góp vào mục tiêu xây dựng nông thôn mới, và không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động.

VRG hiện có 6 lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính.
Kế thừa và phát huy giá trị trong kỷ nguyên mới
Nhìn lại chặng đường 80 năm xây dựng đất nước kể từ ngày Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập, ngành Cao su Việt Nam tự hào là một phần không thể tách rời của lịch sử dân tộc. Từ những ngày đầu gian khó dưới ách thực dân, qua các cuộc kháng chiến trường kỳ, đến thời kỳ xây dựng và hội nhập, các thế hệ công nhân cao su đã không ngừng lao động, cống hiến, vượt qua mọi khó khăn thử thách. Trí tuệ, mồ hôi, và cả xương máu của họ đã kết tinh thành những nét truyền thống hào hùng, vẻ vang, với sự tuyệt đối trung thành với Đảng và Tổ quốc, tinh thần yêu nước nồng nàn, đoàn kết, kiên cường đấu tranh, sáng tạo trong lao động sản xuất.
Ngành cao su đã vinh dự được Đảng và Nhà nước phong tặng nhiều phần thưởng cao quý như Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập, cùng với hàng trăm danh hiệu Anh hùng và Bà mẹ Việt Nam Anh hùng cho các đơn vị và cá nhân. Những thành tựu này không chỉ là sự ghi nhận cho những nỗ lực không ngừng nghỉ, mà còn là minh chứng sống động cho vai trò và đóng góp của ngành cao su vào sự nghiệp cách mạng và công cuộc phát triển đất nước.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam tiếp tục đặt ra những mục tiêu và định hướng phát triển toàn diện. Theo đó, để tạo lợi thế cạnh tranh, thích ứng với những thay đổi, tăng trưởng hiệu quả và bền vững, VRG xác định thực hiện 5 đột phá:
Đổi mới mô hình tăng trưởng và xây dựng các động lực tăng trưởng mới, chuyển dịch và đẩy mạnh đầu tư cho công nghiệp, năng lượng. Động lực tăng trưởng sẽ dựa vào năng suất, hiệu quả và chất lượng sản phẩm dịch vụ, sử dụng tối ưu tài nguyên đất gắn với bảo vệ môi trường.
Đổi mới mô hình quản trị doanh nghiệp hiện đại gắn với chuyển đổi số toàn diện; đẩy nhanh quá trình số hóa toàn bộ hệ thống quản trị, điều hành từ Tập đoàn đến các đơn vị thành viên. Xây dựng hệ sinh thái số ngành cao su, tạo nền tảng chuyển đổi mô hình hoạt động từ sản xuất truyền thống sang quản trị số; tiếp tục thay đổi thể chế quản trị nội bộ theo hướng đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát.
Nâng cao hiệu quả sử dụng đất, phát huy hiệu quả mọi nguồn lực; tập trung phát triển các khu/cụm công nghiệp, các dự án năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; thúc đẩy tăng trưởng xanh và phát triển bền vững gắn với ESG, phát triển chuỗi giá trị ngành cao su và các ngành kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.
Phát triển nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài, nhất là nhân lực lãnh đạo, quản lý của Tập đoàn và tại các đơn vị thành viên. Tăng cường đào tạo cho đội ngũ cán bộ, người lao động gắn với chuyển đổi số, ứng dụng khoa học công nghệ và các chuẩn mực quốc tế phù hợp với lĩnh vực phát triển của Tập đoàn.
Nâng cao hình ảnh và thương hiệu VRG trên thị trường khu vực và toàn cầu; tập trung thực hiện chiến lược hợp nhất thương hiệu theo hướng thống nhất, đồng bộ, gắn với các sản phẩm/dịch vụ chủ lực có hàm lượng công nghệ, tiêu chuẩn quốc tế và phát triển bền vững.
Tầm nhìn đến năm 2035, phấn đấu đưa VRG trở thành Tập đoàn kinh tế hàng đầu trong lĩnh vực nông nghiệp, tăng trưởng xanh, phát triển bền vững, có năng lực cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế; dẫn đầu về ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số, thực hành ESG; tiên phong thực hiện trách nhiệm xã hội, góp phần tích cực cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới.
Điều này thể hiện quyết tâm của Tập đoàn trong việc đổi mới, sáng tạo, tái cơ cấu ngành, phát triển sản xuất kinh doanh theo hướng hiện đại, bền vững, góp phần đưa ngành cao su Việt Nam vươn tầm thế giới, khẳng định vị thế của một ngành kinh tế chủ lực, tiếp tục đồng hành cùng đất nước trong chặng đường phát triển mới.
80 năm qua, cùng với cả nước, ngành Cao su Việt Nam đã viết nên những trang sử vàng son, là minh chứng sống động cho ý chí quật cường, tinh thần lao động sáng tạo và sự cống hiến không ngừng nghỉ vì độc lập, tự do và sự phồn vinh của Tổ quốc. Những đóng góp ấy sẽ mãi là niềm tự hào, là động lực để các thế hệ công nhân cao su hôm nay và mai sau tiếp tục phát huy truyền thống, xây dựng Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam ngày càng vững mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.