Nhìn vào cuộc chiến chuỗi cung ứng
Vụ phá hoại thiết bị liên lạc của Hezbollah đầu năm 2024, được cho là do Israel thực hiện, chắc chắn đã gây chấn động, nhưng nhìn từ góc độ gián điệp, hành động này không có gì mới. Các cơ quan tình báo từ lâu đã nhắm mục tiêu và tận dụng chuỗi cung ứng cho cả mục đích gián điệp lẫn phá hoại.
Từ Chiến tranh lạnh của thế kỷ 20 tới xung đột địa chính trị hiện tại, việc thâm nhập chuỗi cung ứng luôn mang lại cơ hội để thu được thông tin có giá trị về đối thủ, hoặc để phá hoại các lĩnh vực quan trọng trong nền kinh tế của họ.
Các quan chức phương Tây đang bận rộn đánh giá các điểm yếu chiến lược và chiến thuật trong chuỗi cung ứng của chính họ. Hầu như hội nghị nào ở Washington D.C. cũng đề cập đến Đạo luật CHIPS và chuỗi cung ứng chất bán dẫn. Mỹ đang rót hàng tỷ USD vào phát triển hệ sinh thái cho sản xuất công nghệ cao và xử lý vật liệu quan trọng để hỗ trợ ngành vi điện tử trong nước (như Intel ở Arizona) và ở cả các nước đối tác (như Mexico, Philippines…).

Vụ kích nổ máy nhắn tin được cho là của Israel nhắm vào lực lượng Hezbollah ở Lebanon đặt ra vấn đề lớn về phá hoại từ chuỗi cung ứng.
Lo ngại về sự mong manh của chuỗi cung ứng trong lĩnh vực quốc phòng cũng thúc đẩy Bộ Quốc phòng Mỹ lần đầu tiên đưa ra Chiến lược công nghiệp quốc phòng. Nhà Trắng thậm chí còn thành lập Hội đồng phục hồi chuỗi cung ứng để điều phối và quản lý nhiều sáng kiến chuỗi cung ứng khác nhau trong Chính phủ Mỹ. Điều đáng ngạc nhiên là Chính phủ Mỹ mất quá nhiều thời gian để thay đổi cách tiếp cận. Toàn cầu hóa không diễn ra như dự đoán. Các nguyên lý của chính sách kinh tế tự do, bao gồm khả năng cạnh tranh hoàn hảo và hiệu quả, đang dần yếu thế trước ý tưởng về khả năng phục hồi trước những rủi ro từ phía các đối thủ.
Hành động phá hoại chuỗi cung ứng của đối thủ có tuổi đời ngang với nghệ thuật quản lý đất nước và chiến tranh. Vào thời trung cổ, quân đội thường sử dụng gián điệp đội lốt thương gia để khám phá xem đối thủ đang mua gì. Họ cũng có thể đầu độc nguồn nước của kẻ thù. Đến thế kỷ 20, khi tình báo Anh phát hiện ra rằng phát xít Đức đang sử dụng các công ty thương mại làm bình phong để do thám, Anh đã nỗ lực - nhưng không thành công - trong việc can thiệp vào công nghệ mà Đức được cho là đang nhắm tới. Tuy nhiên, chỉ đến sau chiến tranh, việc sử dụng chuỗi cung ứng để thu thập thông tin và phá hoại mới phát triển mạnh mẽ.
Giai đoạn Chiến tranh lạnh, Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) đã nghĩ ra một chiến dịch tài tình để thu thập thông tin liên lạc nước ngoài bằng cách gian lận trong quá trình sản xuất và thu mua của họ. CIA đã bí mật thông đồng với công ty Crypto AG nổi tiếng của Thụy Sĩ để bán các thiết bị mã hóa đã bị can thiệp cho các nước thứ 3. Các bên này mua thiết bị của Crypto với niềm tin rằng họ đã có thể dùng tiền mua được công nghệ tốt nhất của Thụy Sĩ - một quốc gia trung lập. Chiến dịch của CIA, với mật danh RUBICON và chỉ được tiết lộ vào năm 2020, đã cho phép Chính phủ đọc được thông tin liên lạc nước ngoài một cách dễ dàng như đọc một cuốn sách mở.
Cuối thời kỳ Chiến tranh lạnh, hoạt động gián điệp và phá hoại chuỗi cung ứng đã đi theo một hướng mới. Các cơ quan tình báo Liên Xô, Ủy ban An ninh quốc gia (KGB) và Tổng cục Tình báo (GRU), đã hướng mục tiêu vào các nước phương Tây để đánh cắp nhiều thông tin tình báo khoa học công nghệ nhất có thể, từ đó thực hiện chiến lược tư tưởng lớn của Liên Xô. Việc Richard Nixon và Henry Kissinger cải thiện quan hệ Đông - Tây, còn được gọi là giai đoạn hòa hoãn, cho phép mở ra mối quan hệ thương mại giữa khối Xôviết khi đó và Mỹ.

Hình ảnh vụ án gián điệp “Hồ sơ FAREWELL” qua màn ảnh nhỏ.
Mặc dù Chính phủ Mỹ đã hạn chế việc bán công nghệ lưỡng dụng sau Bức màn sắt, nhưng tình báo Liên Xô khi ấy đã tận dụng giai đoạn hòa hoãn để chuyển sang thế chủ động. Năm 1982, một đặc vụ Liên Xô trong bộ phận tình báo khoa học công nghệ của KGB - Line X - đã tiết lộ phạm vi và quy mô cuộc tấn công khoa học công nghệ của KGB vào phương Tây. Đặc vụ này, Vladimir Vetrov, đã nhận được mật danh FAREWELL từ cấp trên trong cơ quan tình báo Pháp. Hoạt động gián điệp của Vetrov đã mang lại cho cơ quan tình báo Pháp và các đồng minh của nước này cơ hội chưa từng có để tìm hiểu sự thâm nhập bí mật của Liên Xô vào chuỗi cung ứng của phương Tây.
Theo thông tin tình báo hết sức nhạy cảm của Vetrov, dựa trên khoảng 4.000 tài liệu mà ông lấy được gọi là “Hồ sơ FAREWELL”, đã được Pháp chuyển giao ở cấp cao nhất cho Nhà Trắng và cộng đồng tình báo Mỹ. Hồ sơ này đã tạo điều kiện cho CIA, đang làm việc với một số đối tác của họ ở châu Âu, tiến xa hơn một bước so với hoạt động gián điệp - nhằm phá hoại chuỗi cung ứng được cho là mục tiêu của khối Xôviết. Mặc dù chi tiết cụ thể vẫn chưa rõ ràng, nhưng chiến dịch của CIA dường như bao gồm cả việc cung cấp cho Chính phủ Liên Xô thiết kế lõi của tàu con thoi của Cơ quan Hàng không và vũ trụ Mỹ (NASA), các chip máy tính bị lỗi, thông tin sai lệch về công nghệ tàng hình và các turbin bị trục trặc.
Nhờ vào hoạt động báo chí điều tra gần đây của phóng viên an ninh quốc gia Zach Dorfman, giờ đây chúng ta biết rằng Cục Điều tra liên bang Mỹ (FBI) cũng giở những trò tương tự. Trong chiến dịch có mật danh INTERING, FBI đã đảm bảo rằng Liên Xô “sẽ vô tình tốn hàng triệu USD để mua hàng hóa lỗi của Mỹ”, như Dorfman đã viết trong bài báo gần đây từ Politico Magazine. FBI đã sử dụng một doanh nhân người Áo có nhiều mối quan hệ - hiện vẫn chưa rõ danh tính - để “gieo rắc công nghệ lỗi cho Moscow và các đồng minh của họ, rút cạn kho bạc của khối Xôviết, vạch trần các sĩ quan tình báo và những người Mỹ bí mật thông đồng với Liên Xô, và tiết lộ chính xác cho các đặc vụ phản gián Mỹ công nghệ nào Liên Xô đang theo đuổi”. Bulgaria là mục tiêu chính của chiến dịch INTERING, và nhờ vào FBI, họ đã nhận được một loạt sản phẩm vi điện tử lỗi.
Chiến tranh lạnh trong thế kỷ 20 là giai đoạn đơn giản hơn. Liên Xô chưa bao giờ là cường quốc kinh tế trên trường quốc tế, và phương Tây trên thực tế có thể bỏ qua điều này. Nhưng giờ đây nó không còn đúng với Trung Quốc hiện nay, và thậm chí là cả Nga, khi những nền kinh tế này đã cho thấy khả năng phục hồi đáng kể trước các biện pháp trừng phạt của phương Tây sau cuộc tấn công toàn diện nhằm vào Ukraine. Mặc dù có những điểm tương đồng, nhưng Chiến tranhlạnh thế kỷ 20 và cuộc xung đột địa chính trị Đông - Tây hiện tại cũng có những khác biệt lớn. Sức mạnh kinh tế to lớn của Trung Quốc - và sự kết nối của nước này với phần còn lại của thế giới trong 2 thập kỷ qua - khiến cho cuộc cạnh tranh hiện tại trở nên phức tạp, và do đó có thể nói là nguy hiểm hơn nhiều so với trong quá khứ, như lưu ý gần đây của cựu Ngoại trưởng Mỹ Condoleezza Rice.
Bối cảnh kỹ thuật số ngày nay cũng khiến cho việc khai thác chuỗi cung ứng trong hiện tại khác với trong quá khứ. Biên tập viên quốc phòng Shashank Joshi của tờ The Economist đã viết hồi tháng 9/2024: “Những gì trước đây đòi hỏi các công ty bình phong, cơ sở hạ tầng vật lý và các đặc vụ phải mang theo công cụ phá hoại thì giờ đây có thể được thực hiện trực tuyến”.
Hãy lấy ví dụ vụ tấn công SolarWinds, vụ xâm nhập mạng lớn nhất được ghi nhận từ trước đến nay ở Mỹ, bị phát hiện vào giữa tháng 12/2020 làm ví dụ. Đối phương đã có thể cài cắm các mạng lưới “cửa hậu” vào khu vực tư nhân và các cơ quan liên bang Mỹ bằng cách sử dụng bản cập nhật phần mềm do công ty SolarWinds cung cấp. Cuộc tấn công mạng này có quy mô lớn tới mức gây chấn động và nhắm mục tiêu vào nhiều lĩnh vực then chốt thuộc cơ sở hạ tầng an ninh quốc gia của Mỹ như Bộ Năng lượng, vốn kiểm soát Cơ quan An ninh hạt nhân quốc gia này.

Các nhà hoạch định chính sách, các ngành công nghiệp và cộng đồng tình báo quốc gia cần đoàn kết lại để xây dựng mạng lưới cung ứng bền vững, an toàn và hiệu quả cho tương lai.
Dựa trên bằng chứng hiện tại, có thể nói vụ tấn công SolarWinds là hoạt động gián điệp (thu thập thông tin tình báo), chứ không phải hoạt động phá hoại. Tuy nhiên, điều đáng lo ngại là trong môi trường kỹ thuật số, ranh giới giữa hoạt động gián điệp và hoạt động phá hoại rất mong manh, sự khác biệt nằm ở việc quan sát, cài đặt phần mềm độc hại và kích hoạt nó, và có thể chỉ nằm ở mã (lập trình). Như học giả luật quân sự Anh Juliet Skingsley đã chỉ ra, sự khác biệt cơ bản giữa hoạt động gián điệp và hoạt động phá hoại, cho dù trên thực tế thường không rõ ràng, bắt nguồn từ luật quốc tế, vốn nhìn chung cho phép hoạt động gián điệp, ngoại trừ trường hợp bị cấm bởi hiệp ước hoặc thông lệ, nhưng không cho phép hoạt động phá hoại.
Hoạt động gián điệp công nghiệp do nhà nước hậu thuẫn có cả ưu điểm lẫn nhược điểm. Một mặt, việc khai thác năng lực sâu rộng của Chính phủ Mỹ vì lợi thế của các công ty Mỹ mang hơi hướng chủ nghĩa tư bản thân hữu. Mặt khác, các nước phương Tây khác như Pháp hay Israel, hầu như không tách biệt giữa hoạt động tình báo và thương mại.
Có lẽ đã đến lúc cần xem xét lại lệnh cấm hiện hành đối với hoạt động gián điệp công nghiệp. Mỹ có nên duy trì các nguyên tắc gián điệp nặng về lý thuyết tới mức gây tổn hại đến nền kinh tế hay không? Công chúng không biết liệu Mỹ có đang phá hoại chuỗi cung ứng của nước thù địch như từng làm với hồ sơ FAREWELL hay không. Tuy nhiên, có thể nói một số quan chức trong các bộ phận của cộng đồng tình báo ít nhất từng có suy nghĩ theo hướng này. Theo một cựu sĩ quan cấp cao giấu tên của CIA, cơ quan này có một đơn vị chuyên về hoạt động chuỗi cung ứng. Một ngày nào đó, các hoạt động bí mật này sẽ được tiết lộ.
Trước những chuyển đổi sâu sắc đang diễn ra trong chuỗi cung ứng toàn cầu, các nhà nước cần có cách tiếp cận toàn diện, hợp tác và chủ động. Các nhà hoạch định chính sách, các ngành công nghiệp và cộng đồng tình báo cần phải đoàn kết lại để xây dựng mạng lưới cung ứng bền vững, an toàn và hiệu quả cho tương lai. Để làm được điều này, các chính phủ cần phải thay đổi quan điểm về các công ty, coi họ là đối tác thực sự, chứ không chỉ là “nhà cung cấp”.
Chuỗi cung ứng là ví dụ điển hình. Theo quan sát, các cơ quan chính phủ thường chọn xây dựng các giải pháp tùy chỉnh khi các giải pháp thương mại tiên tiến đã có sẵn, thường là do tin rằng nhu cầu của chính phủ là đặc biệt. Trong hầu hết các trường hợp, điều này là không đúng - chắc chắn là về mặt chuỗi cung ứng. Các công ty ôtô lớn, công ty vận tải biển toàn cầu và các nhà bán lẻ đa quốc gia đều phải đối mặt với những vấn đề về quy mô và mức độ phức tạp tương tự các cơ quan chính phủ. Các giải pháp thương mại có quy mô lớn đã đạt được tốc độ và sự đổi mới đáng kể trong chuỗi cung ứng mà không cần đến các trung tâm nghiên cứu do liên bang tài trợ. Những trung tâm này chắc chắn có nhiều nhân tài, nhưng việc tái xây dựng những gì đã tồn tại ở quy mô lớn trong lĩnh vực tư nhân là bài toán kinh tế tồi tệ đối với lợi tức đầu tư của người đóng thuế, và thường cho ra sản phẩm kém chất lượng.
Không như ở thế kỷ 20, không phải là các chính phủ mà chính là khu vực tư nhân đang phát triển các công nghệ mới nổi có khả năng làm thay đổi cuộc sống người dân trong thế kỷ 21 này như AI, máy tính lượng tử và sinh học tổng hợp. Khoảng 85% cơ sở hạ tầng quan trọng của Mỹ đang do tư nhân nắm giữ. Chính phủ khó có thể nắm rõ một lĩnh vực hay doanh nghiệp hơn chính các doanh nghiệp. Điều này đặc biệt đúng đối với các công nghệ mới nổi và các chuỗi cung ứng liên quan. Việc trực tiếp giải quyết các thách thức đa diện này có thể mở đường dẫn đến một nền kinh tế toàn cầu an toàn, bền vững và thịnh vượng hơn trong kỷ nguyên của AI và chuyển đổi số.