Nhu cầu khí đốt, khí thiên nhiên hóa lỏng sẽ tăng gấp 3 lần

Theo các chuyên gia của Công ty Nghiên cứu và tư vấn thị trường năng lượng Wood Mackenzie, nhu cầu về khí đốt và khí thiên nhiên hóa lỏng của Việt Nam dự kiến sẽ tăng trung bình 12% mỗi năm, để phục vụ cho tăng trưởng kinh tế và có thể tăng gấp ba lần vào giữa những năm 2030.

Đảm bảo an ninh năng lượng điện

Chia sẻ nội dung thông tin nhu cầu khí đốt và khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) của Việt Nam tại buổi hội thảo "Khí thiên nhiên hóa lỏng: Thúc đẩy sự phát triển bền vững của Việt Nam" vừa diễn ra tại TP. Hồ Chí Minh, ông Joshua Ngu - Phó Chủ tịch khu vực châu Á - Thái Bình Dương của Wood Mackenzie nhấn mạnh, ngành điện lực sẽ tiếp tục dẫn đầu trong tiêu thụ khí đốt, với dự báo nhiên liệu này sẽ đóng góp tới 14% tổng sản lượng điện vào năm 2030.

Chuyên gia Wood Mackenzie thông tin thị trường khí đốt và khí thiên nhiên hóa lỏng của Việt Nam tại hội thảo. Ảnh: Đỗ Doãn

Chuyên gia Wood Mackenzie thông tin thị trường khí đốt và khí thiên nhiên hóa lỏng của Việt Nam tại hội thảo. Ảnh: Đỗ Doãn

Nghiên cứu của Wood Mackenzie cho thấy, tiêu thụ khí đốt sẽ tiếp tục tăng do nhu cầu năng lượng ngày càng cao hơn, từ 8 triệu tấn dầu quy đổi (Mtoe) vào năm 2020 lên 20 Mtoe vào năm 2035. Trong quá trình chuyển đổi này, tỷ trọng than tiêu thụ sẽ giảm 7 Mtoe vào năm 2050.

Với những dự án phát triển gần đây của Việt Nam (như quyết định đầu tư vào lô B ở lưu vực Malaysia) dự kiến sẽ tăng thêm 0,4 tỷ feet khối (tương đương 11,3 triệu mét khối) sản lượng khí đốt mỗi ngày vào năm 2030. Ngoài ra, việc xây dựng đường ống dẫn khí từ lô hợp đồng phân chia sản lượng dầu khí Tuna (Indonesia) ở biển Natuna được kỳ vọng sẽ có thể vận chuyển khí đốt cho Việt Nam kể từ những năm 2030 trở đi.

“Để phục vụ phát triển kinh tế, việc phát điện từ khí đốt đang ngày càng cần thiết để hạn chế khả năng xảy ra tình trạng thiếu điện, trong tương lai gần. Khi sản lượng điện từ than chững lại trong giai đoạn tới và năng lượng tái tạo tiếp tục đối mặt với những thách thức như hiệu suất gián đoạn hay các hạn chế của lưới điện, khí đốt và LNG sẽ là những nguồn nhiên liệu quan trọng đảm bảo an ninh năng lượng của quốc gia cũng như hỗ trợ kinh tế tăng trưởng bền vững” – ông Joshua Ngu nói.

Bên cạnh nhu cầu khí đốt được dự báo tăng lên, Việt Nam cũng đối mặt với nhiều thách thức trong sản lượng nội địa. Bởi các mỏ khí hiện tại - chủ yếu nằm ở khu vực Đông Nam Bộ đang bước vào giai đoạn cạn kiệt, dẫn đến nguồn cung khí đốt nội địa giảm 25% trong 5 năm qua. Trong khi đó, do Việt Nam hiện chỉ đang hoàn toàn tiếp xúc với thị trường khí LNG mua và giao ngay, chưa ký bất kỳ hợp đồng mua bán LNG dài hạn nào, nên tiềm ẩn rủi ro biến động giá trong thị trường khí đốt Việt Nam do thiếu hụt nguồn cung khí LNG đảm bảo.

Cần khung chính sách hỗ trợ, đầu tư phát triển hạ tầng

Theo ông Raghav Mathur - chuyên gia nghiên cứu phân tích khí đốt và LNG của Wood Mackenzie, sự thiếu hụt trong nguồn cung khí LNG theo hợp đồng, cùng với nguồn tài nguyên trong nước ngày càng cạn kiệt, làm tăng nguy cơ biến động giá ở Việt Nam cũng như nguy cơ mất điện hoặc phân phối khí đốt trong tương lai.

Phát triển cơ sở hạ tầng nhằm ứng phó hiệu quả với nhu cầu khí đốt và LNG tăng mạnh sắp tới. Ảnh: Việt Dũng.

Phát triển cơ sở hạ tầng nhằm ứng phó hiệu quả với nhu cầu khí đốt và LNG tăng mạnh sắp tới. Ảnh: Việt Dũng.

Việc phát triển cơ sở hạ tầng khí đốt mới sẽ giảm bớt mối lo về tình trạng thiếu hụt nguồn cung. Hiện tại, mạng lưới đường ống dẫn khí đốt chính của Việt Nam tập trung ở khu vực phía Nam. Đồng thời, hai kho cảng khí LNG đã được xây dựng tại khu vực, với cảng LNG Thị Vải (Bà Rịa – Vũng Tàu) đã hoạt động và cảng Hải Linh (Bà Rịa – Vũng Tàu) dự kiến sẽ chính thức hoạt động trong tháng 9/2024.

Một số công trình kho cảng LNG khác đang ở giai đoạn nghiên cứu tính khả thi và dự kiến có thể đi vào hoạt động vào đầu những năm 2030. Việc Chính phủ phê duyệt Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII hồi tháng 5/2023 cho thấy tầm quan trọng của các dự án điện khí LNG tại Việt Nam, hướng tới việc tăng thêm 22,4 GW công suất điện từ khí LNG vào năm 2030.

‘‘Tuy nhiên, để Việt Nam tận dụng triệt để tiềm năng của khí đốt và LNG, cần có một cơ chế năng lượng chuyên biệt để tập trung vào chính sách và quy định về năng lượng. Một khung chính sách mạnh mẽ là điều cần thiết để thu hút đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng khí đốt trung và hạ nguồn, đồng thời nên phát triển thêm quan hệ hợp tác với các nhà cung cấp giải pháp có khả năng đáp ứng yêu cầu của quốc gia” - ông Raghav Mathur nói.

Wood Mackenzie có đội ngũ hơn 2.000 chuyên gia, chuyên cung cấp thông tin trên toàn cầu về năng lượng tái tạo, năng lượng và tài nguyên thiên nhiên với hơn 50 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực nghiên cứu tài nguyên thiên nhiên.

Đỗ Doãn

Nguồn Thời báo Tài chính: https://thoibaotaichinhvietnam.vn/nhu-cau-khi-dot-khi-thien-nhien-hoa-long-se-tang-gap-3-lan-158769.html