Những bệnh ở da khi mang thai có ảnh hưởng đến thai nhi?
SKĐS Trong thời gian mang thai, hầu hết phụ nữ đều có thể xuất hiện bệnh trên da. Những bệnh về da khi mang thai có ảnh hưởng đến thai nhi?
Trong các bệnh da này, có một số bệnh không ảnh hưởng gì lớn cho mẹ và thai nhi, nhưng cũng có các bệnh da gây nguy hiểm cho cả mẹ và thai nhi. Bởi vậy chúng ta cần tìm hiểu để có thái độ xử trí thích hợp khi thai phụ có bệnh trên da.
Những bệnh da ít ảnh hưởng đến mẹ và con
- Mày đay sẩn ngứa là bệnh hay gặp nhất ở phụ nữ có thai. Bệnh thường xuất hiện vào 3 tháng cuối thai kỳ, tổn thương xuất hiện từ trên các vết rạn da ở vùng bụng, là các ban mày đay nhỏ, màu đỏ, hơi phù nề, liên kết với nhau thành đám. Trên ban có mụn nước nhỏ, sau vài tuần, ban sẩn có thể lan đến đùi, mông, ngực, cánh tay, lưng...thường rất ngứa nhưng không nguy hại cho mẹ và thai nhi.
Bệnh xảy ra do sự căng lên nhanh chóng của thành bụng, gây tổn thương các sợi liên kết tạo ra phản ứng viêm. Một nghiên cứu cho thấy : có DNA của thai nhi là con trai trong mảnh da sinh thiết từ các ban sẩn của mẹ, đóng vai trò như chất kích thích da gây ngứa.
Điều trị:dùng thuốc mỡ steroide bôi lên vùng da bệnh từ 5 – 6 lần/ngày để giảm ngứa và phòng tổn thương lan rộng. Trường hợp nặng có thể dùng steroide, thuốc kháng Histamin uống phối hợp để giảm ngứa và giúp ngủ được. Bệnh thường kéo dài khoảng 6 tuần và tự khỏi sau khi sinh khoảng 1 – 2 tuần, nhưng ngứa có thể kéo dài hơn.
Sẩn ngứa nang lôngthường phát vào 3 tháng giữa của thai kì, lúc đầu là các nốt màu đỏ nhỏ không có mủ, xuất hiện ở vai, nửa lưng trên, cánh tay, ngực và bụng tương tự trứng cá, rất ngứa. Bệnh có thể tự khỏi sau khi sinh 2 – 3 tuần.
Có nghiên cứu cho rằng bệnh do thay đổi hormon. Điều trị tương tự như trứng cá mức độ nhẹ. Có thể bôi bằng Benzoyl peroxide, uống kháng histamin chống ngứa.
Bệnh không làm tăng nguy cơ đẻ non hay sảy thai.
- Bệnh Pemphigoidelà bệnh tự miễn, thường xuất hiện trong 3 tháng giữa thai kỳ đến một thời gian ngắn sau khi sinh. Biểu hiện: ngứa dữ dội, sau đó hình thành những mảng đỏ cứng ở quanh rốn. Sau 2 – 4 tuần các mảng đỏ này lan rộng ra, xuất hiện mụn nước và mụn mủ ở xung quanh bờ, tạo thành hình zic zắc hay vòng vèo hoặc thành đám kiểu herpes nên có tên gọi bệnh herpes ở phụ nữ có thai, lan rộng dần ra thân mình, lưng, mông cánh tay, bàn tay và bàn chân, nhưng không có ở mặt, trên đầu và trong miệng. Có đến 75 – 80% ca bệnh bùng phát mạnh lên trước sinh. Bọng nước khỏi không để lại sẹo trừ khi có bội nhiễm. Bệnh do tự miễn dịch, kháng thể sẽ kết hợp với một típ của tổ chức liên kết trên da gây viêm, đỏ, ngứa, hình thành bọng nước.
Điều trị: có thể bôi kem steroide và kháng histamin. Trường hợp nặng cần uống steroide.
Bệnh gây ảnh hưởng đến thai nhi. Do kháng thể đi qua rau thai nên bệnh ảnh hưởng đến thai nhi. Trẻ sinh ra có thể bị phát ban, nhưng ban thường tồn tại trong thời gian ngắn và có thể tự khỏi mà không cần điều trị. Bệnh không gây nguy cơ sảy thai hay thai chết khi lọt lòng.
Bệnh ảnh hưởng nặng đến mẹ và thai nhi
- Chốc dạng herpesđược coi là một dạng của vảy nến thể mủ. Đến nay chưa rõ chốc dạng herpes có phải là bệnh riêng biệt do thai nghén hay là một hình thái vảy nến thể mủ bị nặng lên khi mang thai.
Bệnh bắt đầu vào 3 tháng cuối của thai kì, tổn thương đầu tiên là những mảng đỏ ở mặt trong đùi hay bẹn, trước và sau cổ. Trên các mảng đỏ da là những mụn mủ nhỏ li ti, cụm lại thành đám và có xu hướng lan ra xung quanh. Có những mụn mủ mới xuất hiện trên nền ban đỏ gờ lên ở ngoại vi, trong khi những mụn mủ ở trung tâm xẹp xuống bong vảy và lành. Các mụn mủ lan ra thân mình và chi, nhưng rất ít khi ở mặt, bàn tay và bàn chân, nhưng cũng có thể thấy ở niêm mạc miệng và giường móng.
Triệu chứng toàn thân gồm: sốt, rét run, buồn nôn, nôn, tiêu chảy và mệt mỏi. Số ít bệnh nhân bị hạ canxi, phosphat, albumin trong máu nhất là những người có tiền sử bị suygiảm tuyến cận giáp. Sinh thiết ở thương tổn mới, có sự xuất hiện của bạch cầu đa nhân trung tính trong xốp bào thượng bì, gọi là mụn mủ dạng xốp của Kogoj.
Điều trị: chủ yếu bằng prednisolon với liều cao 60mg/ngày để kiểm soát sự phát ban, nhưng khi kiểm soát được bệnh, cần hạ liều từ từ vì có nguy cơ tăng bệnh do hạ liều quá nhanh. Dùng kháng sinh thích hợp để chống nhiễm khuẩn da tại chỗ và nhiễm khuẩn toàn thân. Bù canxi, albumin kịp thời nếu hạ thấp.
Chốc dạng herpes có thể gây nguy cơ cao cho thai nhi gồm : đẻ non, chết thai, nên những thai phụ cần được các thầy thuốc chuyên khoa da liễu, sản khoa và nhi khoa theo dõi chặt chẽ.
- Ứ mật trong gan xuất hiện vào 3 tháng cuối thai kì, thường thấy ở những thai phụ có thai đôi. Ngứa bắt đầu ở lòng bàn tay, bàn chân sau đó lan ra các vùng cơ thể. Có thể thấy các ban đỏ xuất hiện trên các vết ngứa. Khoảng 10 – 15% thai phụ có vàng da, sau khi thấy ngứa 2 - 4 tuần.
Các dấu hiệu kèm theo là chán ăn, mệt mỏi, phân nâu, nước tiểu thẫm, khó chịu vùng thượng vị, nhiễm khuẩn đường tiết niệu, thiếu vitaminK. Sau khi sinh, các triệu chứng ngứa và vàng da đều tự khỏi. Căn nguyên của bệnh là do rối loạn bài tiết mật, gây ứ đọng muối mật trong gan, acid mật tăng lên trong máu, làm lắng đọng trong da gây ngứa dữ dội. Nồng độ cholesterol, triglyceride và bilirubin cũng tăng lên.
Điều trị: có thể dùng các sản phẩm làm mềm da, sữa tắm để chống ngứa. Thuốc hỗ trợ tiết mật như ursodeoxycholic acid, cholestyramin, S - adenosylmethionin có tác dụng giảm ngứa và tiết mật, steroide. Khám và theo dõi bởi bác sĩ chuyên khoa sản.
Bệnh gây ảnh hưởng đến thai nhi. Do thiếu khả năng điều tiết mật, gan thai nhi cũng chịu ảnh hưởng của sự ứ mật, có thể làm tăng nguy cơ sinh non và thai chết trong tử cung.