Những bờ tre xanh mát

Còn nhớ trận lụt lớn năm 1983, ba tôi đã bám những thân tre để bồng bế bà nội tôi và lũ con đến nơi tránh lũ. Khi nước rút, những vật dụng trong nhà trôi ra vườn đã được bờ tre giữ lại cho người...

Càng nắng nóng gay gắt làm tôi càng nhớ những bụi tre, bờ tre của xóm cũ. Trưa mùa hạ, trong một lần ra khỏi thành phố, tôi đã được ngồi dưới một bờ tre cán giáo xanh mát ở một làng quê ven phá Tam Giang để nhớ lại, cảm lại những trưa hè quê cũ khi mà nông thôn chưa có điện và những bờ tre đã che mát cho con người hiền hòa, âu yếm như thế nào. Tôi thấy làng quê này đang thật may mắn còn giữ được bờ tre và ngẫm thật buồn vì những bờ tre của làng tôi đã không còn nữa từ mấy năm rồi.

Mới đây, đọc trên Facebook của một người bạn kêu gọi người quê đóng góp để bê-tông hóa một con đường đất, tôi nhắn bạn: "Đừng chặt bờ tre xanh hai bên đường nghe, uổng lắm đó!". Bạn nói sẽ bằng mọi cách giữ lại tre xanh, nghe thật mừng và cũng chạnh lòng khi nghĩ giá mà xóm quê của tôi còn giữ lại được những bờ tre...

Lâu rồi tôi không thấy lại lũ chim chèo bẻo. Hồi xóm tôi còn những bờ tre dày, cứ vài ba ngày lũ chèo bẻo lại về làm náo động cả lên. Lũ chim sâu, chim sẻ chắc chắn thấy chèo bẻo là phải núp rồi nhưng cỡ diều hâu hay quạ gặp đàn chèo bẻo cũng phải sợ. Lũ chim lông đen đuôi dài, mắt sắc này rất đoàn kết và giỏi đánh nhau, hầu như chẳng thua loài chim nào.

Hồi đó có giàu sức tưởng tượng đến mấy thì những người dân làng quê cũng không ai có thể nghĩ đến chuyện một ngày nào đó xóm tôi, làng tôi sẽ mất đi những bờ tre xanh. Đứng từ cánh đồng nhìn về phía làng là thấy cả một rừng tre xanh ngút khổng lồ. Những ngày gió Nam nóng kéo qua làng, những ngọn tre quắp lại, bạc đi nhưng không bao giờ chết vì hạn hán.

Những hàng tre dài soi bóng xuống dòng sông quê yên ả bao đời

Những hàng tre dài soi bóng xuống dòng sông quê yên ả bao đời

Bên bờ tre, nhà nào cũng đào một con mương để thoát nước mùa mưa và ngăn rễ tre không ăn sâu vào vườn lấy chất đất của những vồng rau, vồng cà. Khi nào rễ tre đâm ra trắng bờ ao là biết trời sắp mưa. Rồi thân tre đâm những ngọn măng trên cành gọi là măng vòi. Măng vòi muối chua nấu canh với các loài cá đồng hoặc xào với con trìa phá Tam Giang là món ngon khó cưỡng.

Lại nhớ những lần nhà tôi chuẩn bị lợp lại mái nhà tranh đã bị dột mùa mưa. Từ trước khi lợp nhà khoảng chừng nửa năm, ba tôi chọn những cây tre đực thân đã ngả màu vàng xanh, đốt dài, chặt xuống và vác lên hồ đầu xóm để ngâm. Ngâm như thế tre sẽ tăng thêm độ bền và nhất là chống được mối mọt. Rồi đến gần ngày lợp mái nhà, ông cố xuống giúp ba tôi chọn những cây tre cái để chẻ lạt. Chẻ lạt lợp nhà là cả một nghệ thuật, chỉ những người khéo tay và có kinh nghiệm như ông cố mới làm được. Những sợi lạt tre dài được ông cố trau chuốt nhìn rất đẹp mắt.

Hồi nhỏ tôi hay ngồi lê la nhìn mấy người già làm việc để được nghe họ kể chuyện. Ông Giảng là ông ngoại của thằng Lợi cạnh nhà tôi cũng là một thợ tre. Ông chẻ lạt, đan rổ rá, giần sàng và cả đóng cối xay lúa từ tre đều rất tinh xảo. Ông vừa làm việc vừa đọc vè, kể chuyện cho lũ con nít nghe. Bài vè của ông về tên 100 loài cá thiệt hay mà lâu quá nên tôi chẳng còn nhớ nổi một câu nào. Nhưng câu chuyện ông đoạt giải nhất trong một cuộc thi kéo cày thì tôi còn nhớ được. Cái thời chàng trai Giảng mới lớn lên, cả vùng chỉ có mấy con trâu của nhà địa chủ nên ai mạnh khỏe phải kéo cày thay trâu. Ông Giảng kể một ngày ông kéo cày đến 3 sào ruộng, ăn một bữa hết mấy đấu gạo. Trong lần thi thố của các chủ đất, ông Giảng đã thắng các thợ kéo cày còn lại trong vùng và được thưởng mấy thúng lúa...

Cũng như ông cố hay ông Giảng, làng tôi hồi đó có những thợ tre. Chủ nhà kêu họ đến để đốn tre đóng cối xay lúa, đan vạt giường hay nôi tre cho con trẻ... Họ làm như vậy cũng chỉ lấy đôi ba đồng tiền công nhưng cơm nước thì phải có mấy món ăn theo cách nói của người quê là già dặn chút, nghĩa là phải có chút thịt, chút cá tươi và rượu...

Hồi đi học, tôi thuộc lòng mấy câu trong tùy bút của nhà văn Thép Mới: "Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín" hay "Cối xay tre nặng nề quay, từ ngàn đời nay xay nắm thóc"... Tôi vẫn thích ngắm nhìn những căn nhà ở làng quê được bao bọc bởi bờ tre cạnh các thửa ruộng. Khi lúa chín vàng thì đó là một bức tranh thôn dã hiền hòa, trù mật. Ngày mùa, nông dân gặt lúa ngồi nghỉ dưới bóng tre che mát. Người dân quê từ bao đời nay đã biết ơn những bờ tre che chắn. Còn nhớ trận lụt lớn năm 1983, ba tôi đã bám những thân tre để bồng bế bà nội tôi và lũ con đến nơi tránh lũ. Khi nước rút rồi, những vật dụng trong nhà trôi ra vườn đã được bờ tre giữ lại cho người...

Nhà nghèo bán tre đong gạo

Quê tôi có câu thành ngữ: "Đêm nghe chó, ngày ngó tre". Chỉ cần nghe tiếng chó sủa vào ban đêm, nhà nào chó sủa to, biết là nhà có của, nuôi được giống chó tốt lại cho chúng ăn uống đầy đủ. Còn ban ngày chỉ cần nhìn hàng tre, nhà nào tre dày san sát, thân to, thẳng đều thì đích thị là có của ăn của để. Cũng có thể hiểu nhà giàu thì cái hàng rào phải kín, phải cao, ngó tre là biết... Hồi xưa, tre còn được bán cho ngư dân các làng đi biển. Những ngư dân muốn đóng mới hay tu sửa ghe thuyền thì phải mua tre tốt ở các làng làm ruộng. Thường những nhà có điều kiện thì họ chẳng bán tre làm chi, chỉ có những nhà nghèo mới bán tre để đong gạo khi mùa giáp hạt tới. Cũng vì thế, tre tốt là bờ tre nhà giàu...

Bài và ảnh: PHI TÂN

Nguồn NLĐ: http://nld.com.vn/van-nghe/nhung-bo-tre-xanh-mat-20200509205728692.htm