Những cơn sóng trào của khát vọng sáng tạo

Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Khi cái đẹp đổi thay

Trước khi có sự ra đời của Trường Mỹ thuật Đông Dương, người Việt Nam đã được làm quen với việc đào tạo về mỹ thuật và mỹ nghệ thông qua hệ thống giáo dục phổ thông và mô hình trường nghề, trường sơ cấp mỹ thuật ở Sài Gòn-Gia Định và Đồng Nai; các trường nghề đào tạo thợ chuyên môn cao về đồ mộc, đồ gốm để sau khi ra trường, họ trở thành những hạt nhân thúc đẩy sự phát triển của các ngành nghề mỹ nghệ thủ công ở địa phương. Các mô hình nói trên đã góp phần khơi mở tinh thần sáng tạo, cởi mở với cái mới, cái hiện đại của người Việt Nam trên nền tảng truyền thống thẩm mỹ đặc sắc.

Sự ra đời của ngôi trường và sự xuất hiện của hàng loạt tên tuổi quan trọng của thời kỳ đầu tiên của mỹ thuật hiện đại Việt Nam đã được ghi dấu bằng tên gọi: Thời kỳ Mỹ thuật Đông Dương, tính từ khi nhà trường bắt đầu khai giảng cho đến trước Cách mạng Tháng Tám, năm 1945. Chất liệu sơn dầu có lẽ được xem là chất liệu chính yếu đối với sinh viên ngành hội họa, ngay từ khóa học đầu tiên. Các chất liệu như lụa và sơn mài được sinh viên tiếp cận muộn hơn. Nhưng chính các chất liệu có nguồn gốc Đông phương này lại được nhiều sinh viên nhà trường say mê tìm hiểu và kết hợp với bảng từ vựng hội họa hiện đại, tạo nên những bức tranh chứa đựng tâm hồn và tinh thần Việt Nam riêng biệt.

Đó là họa sĩ Nguyễn Phan Chánh (1892-1984), sinh viên Khóa 1 với những bức tranh lụa vẽ cảnh sinh hoạt ở thôn quê Việt Nam, giản dị và hiện thực mà gây tiếng vang lớn ở Triển lãm thuộc địa quốc tế (L'exposition coloniale internationale de 1931) tại Paris (Pháp). Tuần báo L’Illustration, số ra ngày 27/6/1931 và sau đó là số Noel năm 1932, có bài viết về ông, đăng nhiều ảnh tác phẩm của ông. Đó là Nguyễn Gia Trí (1908 – 1993), sinh viên Khóa 4, người dành trọn cuộc đời sáng tác của mình cho hội họa sơn mài, được phát triển từ chất liệu thủ công mỹ nghệ của Việt Nam. Các tác phẩm của ông, ngay từ khi mới xuất hiện, đã trở nên nổi tiếng, đưa tên tuổi của ông đứng đầu trong Tứ trụ của Thời kỳ Mỹ thuật Đông Dương: Nhất Trí, nhì Vân, tam Lân, tứ Cẩn.

Trong 18 khóa đào tạo của Trường Mỹ thuật Đông Dương, có nhiều sinh viên giỏi về chất liệu sơn dầu và điêu khắc. Nhưng sự vượt trội của họ lại chính nhờ vào khả năng thể hiện tâm hồn và suy tưởng của mình thông qua tác phẩm chứ không phải thuần túy chỉ là sự điêu luyện của kỹ thuật tạo hình. Tô Ngọc Vân sớm nổi tiếng với những bức tranh về vẻ đẹp người phụ nữ tiểu tư sản thành thị. Vũ Cao Đàm nổi tiếng với những tác phẩm điêu khắc thể hiện được một cách đầy đặn dung mạo của người Việt đương thời.

Một điều mang ý nghĩa xã hội quan trọng là không chỉ tập trung cho các sáng tác mang dấu ấn và chữ ký cá nhân, nhiều họa sĩ đương thời còn tham dự một cách chủ động và tha thiết vào cuộc sống xã hội đương thời, tác động mạnh mẽ đến nhận thức xã hội và nhận thức thẩm mỹ của người Việt khi đó. Họ tham gia vẽ ký họa, tranh châm biếm những thói tật xấu trong xã hội phong kiến trên báo chí. Họ khai mở những thay đổi thẩm mỹ, khuyến khích con người ý thức hơn về vẻ đẹp cá nhân thông qua những sáng tạo thời trang, như Lê Phổ và Nguyễn Cát Tường với tiệm may tân thời Le Mur nổi tiếng, nơi tạo ra hàng trăm mẫu giày, sandal, đầm và đặc biệt là bộ áo dài tân thời từng đi vào tranh của Nguyễn Gia Trí, nay đã trở thành trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam hiện đại. Trước sự tân tiến của phương Tây, những cách thức vận trang phục mới đã được chính giới họa sĩ nghiên cứu và đưa ra để vẫn bảo đảm sự kín đáo, e lệ của người nữ phương Đông nhưng cũng không kém phần hiện đại và gợi cảm.

Những tinh thần sáng tạo cá nhân hoàn toàn mới, trên nền tảng tinh thần dân tộc mạnh mẽ, đã tạo ra một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.

 Một mặt của bức bình phong sơn mài do Nguyễn Gia Trí sáng tác năm 1939, khổ 159x400cm, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Một mặt của bức bình phong sơn mài do Nguyễn Gia Trí sáng tác năm 1939, khổ 159x400cm, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Lan tỏa tinh thần phụng sự dân tộc

Hòa chung khát vọng độc lập dân tộc, nhiều cựu sinh viên, giảng viên của ngôi trường mỹ thuật danh giá ấy đã nhanh chóng xác quyết hướng đi cuộc đời mới.

Các họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung, Huỳnh Văn Gấm được bầu vào Quốc hội khóa I (1946-1960). Các họa sĩ Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Sỹ Ngọc, Nguyễn Văn Tỵ, Nguyễn Tư Nghiêm… lên chiến khu Việt Bắc, tham gia nhiều hoạt động văn hóa- văn nghệ ở chiến khu. Trong khi họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung vào chiến trường Khu 5, mở các lớp đào tạo ngắn hạn cho những người có năng khiếu hội họa để nhân rộng phong trào hội họa kháng chiến, ở Việt Bắc, họa sĩ Tô Ngọc Vân tiếp tục tìm cách gây dựng lại Trường Mỹ thuật Việt Nam, đã có quyết định thành lập ngay sau ngày 2/9/1945. Ngôi trường ấy là sự kế tục truyền thống đào tạo hàn lâm bài bản từ Trường Mỹ thuật Đông Dương. Thực tiễn của đất nước trong hoàn cảnh kháng chiến khiến Tô Ngọc Vân nhận thấy rõ việc cần kíp phải đào tạo một cách tập trung và chính quy hơn cho những người có năng khiếu vẽ để làm mọi công tác trong kháng chiến với hội họa và đặc biệt, ông mong chờ từ những người có năng khiếu tạo hình và thẩm mỹ ấy sẽ có một lớp họa sĩ-nghệ sĩ thực thụ. “Đó cũng là một hành động để “chuyển hướng nghệ thuật” chung cho đất nước”, theo nhận định của họa sĩ Ngô Tôn Đệ, một trong 22 sinh viên của khóa Mỹ thuật kháng chiến (1950-1954) về tinh thần phụng sự dân tộc của người thầy khả kính, thể hiện đậm nét ở cả hai góc độ hoạt động xã hội và hoạt động sáng tạo nghệ thuật của cá nhân nghệ sĩ.

 Lưu Công Nhân, Một buổi cày, sơn dầu, sáng tác năm 1960, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Lưu Công Nhân, Một buổi cày, sơn dầu, sáng tác năm 1960, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Từ nền tảng kiến thức mỹ thuật được trao truyền một cách bài bản cùng thấm nhuần tinh thần cống hiến, lớp lớp các họa sĩ, nhà điêu khắc hậu thế tiếp tục đóng góp tâm huyết và trí tuệ của mình vào hầu khắp các lĩnh vực trong đời sống kinh tế- xã hội của đất nước. Ở hậu phương, họ tham gia trình bày sách, báo, tạp chí đến điện ảnh, phim hoạt hình, mỹ thuật sân khấu, phổ biến tranh tuyên truyền cổ động, thiết kế những biểu tượng của quốc gia như Quốc huy, tiền giấy, tiền xu, giảng dạy tại nhiều cơ sở giáo dục nghệ thuật được mở về sau này trên khắp cả nước. Ở tiền tuyến, họ tham gia chiến đấu, kiên cường như bất kỳ người lính nào và khi ngưng tiếng súng, họ lại vẽ, bày tranh cho quân và dân xem, tranh thủ dạy vẽ cho những đồng đội và bà con khác…

Khi đất nước hoàn toàn độc lập, thống nhất, cùng với việc thành lập Trường cao đẳng mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, nay là Trường đại học Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, và duy trì trường Cao đẳng Mỹ thuật Huế (thành lập năm 1957), nay là Trường đại học Nghệ thuật thuộc Đại học Huế, số lượng sinh viên theo học mỹ thuật trên cả nước ngày một tăng cao, lan tỏa rộng dài tình cảm dành cho mỹ thuật trong xã hội.

Một điều nổi bật là các thế hệ giảng viên, sinh viên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương năm xưa, dù thuộc giai đoạn phát triển nào, mang tên gì, cũng luôn đóng vai trò quan trọng trong hỗ trợ, chia sẻ kinh nghiệm về giảng dạy, nghiên cứu khoa học và thúc đẩy tinh thần sáng tạo của người dạy và người học về nghệ thuật tạo hình, góp phần truyền cảm hứng và lan tỏa rộng khắp tinh thần của “mỹ thuật Yết Kiêu”.

Theo PGS, TS Phan Thanh Bình, nguyên Hiệu trường Trường đại học Nghệ thuật, Đại học Huế, ngay từ sau ngày thống nhất đất nước, Trường cao đẳng Mỹ thuật Huế đã nhận được rất nhiều hỗ trợ về nhân lực và tài liệu chuyên môn từ ngôi trường số 42, phố Yết Kiêu, Hà Nội. “Từ năm 1976-1982, Trường Mỹ thuật Hà Nội đã cử nhiều họa sĩ, giảng viên danh tiếng vào tham gia giảng dạy, chấm bài chuyên khoa của bậc cao đẳng và bài tốt nghiệp: Các họa sĩ Trần Văn Cẩn, Lương Xuân Nhị dạy chuyên khoa sơn dầu, hình họa, họa sĩ Lê Thiệp dạy định luật xa gần, khắc gỗ, họa sĩ Phạm Văn Đôn dạy hình họa và đồ họa, các giảng viên-nhà điêu khắc Phạm Gia Giang, Nguyễn Thị Kim, Vương Học Báo dạy điêu khắc…”, ông Bình nhớ lại.

Qua thời gian, cho dù là học ở dưới mái trường nghệ thuật nào, hay kể cả tự học, tinh thần sáng tạo trên nền tảng các giá trị văn hóa dân tộc đặc sắc cùng tha thiết được đóng góp vào tiến bộ thẩm mỹ của xã hội trong thời đại mới luôn là kim chỉ nam cho hành trình sáng tác của các thế hệ họa sĩ, nhà điêu khắc.

Nhiều bức tranh được vinh danh trong danh sách Bảo vật quốc gia của đất nước đã được ra đời trong những hoàn cảnh gian khó giữa chiến tranh hay thời bao cấp thiếu thốn của các tác giả. Nhiều họa sĩ đã giữ vị trí tiên phong trong đổi mới ngôn ngữ tạo hình, dấn bước trên những lối đi riêng với tầm nhìn rộng mở cùng bản lĩnh nghệ sĩ mạnh mẽ, tạo nên một thời kỳ hội họa Đổi mới táo bạo, quyết liệt mà vẫn thấm đượm tinh thần dân tộc. Nói như họa sĩ Đào Hải Phong, một họa sĩ nổi bật của thời kỳ ấy, trong một cuộc trò chuyện với chúng tôi, rằng ông tự hào vì thế hệ của ông đã “cùng nhau tạo nên được một diện mạo hội họa Việt Nam, khác với tất cả chứ không có lai căng hội họa Âu, Tàu, Mỹ, Nhật,….”.

Hoàn cảnh xã hội mới trong thời kỳ Đổi mới đã mở ra nhiều hướng đi trong sáng tạo nghệ thuật ở Việt Nam. Các họa sĩ, nghệ sĩ điêu khắc Việt Nam, với tính sáng tạo, lại gặp được ngoại cảnh tác động và khơi mở những tiềm năng, đã tiên phong thử nghiệm và thực hành các hình thức nghệ thuật thị giác mới mẻ hoàn toàn đối với chính họ và công chúng trong nước, như nghệ thuật sắp đặt, nghệ thuật trình diễn, video art, nghệ thuật đa phương tiện đã được xem là bước đi tất yếu. Các thế hệ nghệ sĩ đương đại còn đóng góp rất nhiều cho cộng đồng thông qua việc thành lập những nhóm sinh hoạt chung, hoặc gây dựng những không gian sáng tạo thuần chất, phi lợi nhuận, khuyến khích và thúc đẩy sự sáng tạo trong các thế hệ nghệ sĩ ở nhiều địa hạt khác.

Trong xu thế không thể cưỡng lại của sự hội nhập với thế giới, vị thế của mỹ thuật trong đời sống xã hội ở Việt Nam cho thấy khát vọng lớn của một dân tộc hướng đến sự văn minh chung của nhân loại, tôn trọng những giá trị căn bản của sáng tạo và sự tiến bộ về thẩm mỹ.

đào mai trang

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/nhung-con-song-trao-cua-khat-vong-sang-tao-post921410.html