Những điều cần biết về số lượng CD4 và tải lượng virus ở người nhiễm HIV
Nếu nhiễm HIV đã được xác nhận, các xét nghiệm sẽ được thực hiện thường xuyên để xác định tình trạng hệ thống miễn dịch của một người và mức độ hoạt động của virus trong cơ thể. Những điều này được biểu thị bằng số lượng CD4 và tải lượng vius trong cơ thể.
1. Tế bào CD4 là gì?
CD4 là một tế bào rất quan trọng trong hệ thống miễn dịch của cơ thể, giúp cơ thể nhận biết các kháng nguyên lạ, điều hòa hệ thống miễn dịch của cơ thể để bảo vệ cơ thể chống lại các tác nhân nguy hại như vi khuẩn, virus. CD4 thực chất là tế bào lympho T được sinh ra từ tế bào gốc của tủy xương.
Xét nghiệm đếm số lượng tế bào CD4 là xác định số lượng của tất cả tế bào này trong cơ thể. Số lượng tế bào này càng cao chứng tỏ hệ thống miễn dịch của bạn càng khỏe. Đây là một trong những xét nghiệm rất quen thuộc đối với người nhiễm HIV.
Các tế bào này không chỉ quan trọng đối với chức năng miễn dịch mà còn là mục tiêu chính của HIV. HIV tấn công tế bào CD4, dần dần làm cạn kiệt các tế bào này, cơ thể sẽ giảm khả năng tự bảo vệ trước một loạt các bệnh nhiễm trùng cơ hội.
Xét nghiệm được thực hiện bằng cách lấy mẫu máu, đo số lượng tế bào CD4 trong một microliter (µL) máu. Số lượng tế bào CD4 cho phép xác định trạng thái hệ thống miễn dịch của cơ thể; giai đoạn nhiễm trùng và tốc độ tiến triển của bệnh; khả năng một số bệnh nhiễm trùng sẽ phát triển khi tế bào CD4 cạn kiệt và sự đáp ứng với điều trị…
Số lượng CD4 bình thường nằm trong khoảng từ 500-1.500 tế bào/µL. Ngược lại, số lượng CD4 từ 200 tế bào/µL trở xuống được phân loại về mặt kỹ thuật là AIDS.
Các hướng dẫn điều trị trước đây khuyến nghị nên bắt đầu điều điều trị bằng thuốc kháng virus (ARV) ở những bệnh nhân có số lượng CD4 dưới 500 tế bào/µL hoặc đang mắc bệnh xác định bệnh AIDS. Năm 2016, hướng dẫn cập nhật của Tổ chức Y tế Thế giới đã khuyến cáo điều trị ARV ở tất cả bệnh nhân nhiễm HIV, bất kể số lượng CD4 là bao nhiêu.
2. Tải lượng virus ở người nhiễm HIV là gì?
Tải lượng virus là số lượng virus HIV có trong cơ thể. Xét nghiệm tải lượng virus là đo số lượng bản sao HIV trong một mililit máu. AIDS là giai đoạn nhiễm HIV tiến triển nhất, đạt tải lượng virus cao nhất.
Trong khi số lượng CD4 là một chỉ số về tình trạng miễn dịch và hiệu quả điều trị, thì tải lượng virus được cho là thước đo quan trọng hơn khi bắt đầu điều trị bằng thuốc kháng virus.
Các phòng thí nghiệm sẽ sử dụng công nghệ xét nghiệm di truyền—thường là phản ứng chuỗi polymerase (PCR) hoặc bDNA (DNA phân nhánh), để định lượng số lượng hạt virus trong một mililit (mL) máu. Tải lượng virus HIV có thể dao động từ mức không thể phát hiện được (dưới mức phát hiện của các xét nghiệm hiện tại) đến hàng chục triệu.
Tuy nhiên, kết quả không thể phát hiện được không có nghĩa là không có virus trong máu hoặc đã được "loại bỏ" khỏi bệnh nhiễm trùng. Không thể phát hiện đơn giản có nghĩa là quần thể virus đã giảm xuống dưới mức phát hiện xét nghiệm trong máu, nhưng có thể được phát hiện ở nơi khác, chẳng hạn như trong tinh dịch.
Kết quả xét nghiệm này giúp bác sĩ theo dõi tình trạng nhiễm HIV của bạn và hướng dẫn lựa chọn điều trị. Tải lượng virus HIV giúp tiên lượng bệnh sẽ tiến triển như thế nào. Càng có nhiều HIV trong máu (đồng nghĩa với việc tải lượng virus cao), thì số lượng tế bào CD4 trong cơ thể bạn sẽ giảm càng nhanh và nguy cơ mắc bệnh do HIV càng cao.
Do đó, giữ tải lượng virus của bạn thấp sẽ làm giảm các biến chứng của HIV và giúp bạn sống lâu hơn. Nếu tuân thủ điều trị bạn có thể có được tuổi thọ bình thường hoặc gần như bình thường. Tuổi thọ của những người nhiễm HIV có điều trị đã tăng đáng kể trong nhiều năm gần đây.
Xét nghiệm cũng có thể giúp chẩn đoán nhiễm HIV mới ở những người có kết quả xét nghiệm kháng thể HIV chưa chắc chắn. Xét nghiệm này có thể phát hiện tải lượng virus một vài ngày sau khi nhiễm HIV. Trong khi xét nghiệm kháng thể HIV có thể cho kết quả âm tính trong vòng 2 đến 6 tháng sau khi mới nhiễm HIV. Tuy nhiên, nên xét nghiệm lại kháng thể HIV sau 6 tháng để xác định chẩn đoán.
Mục tiêu của việc ức chế virus
Mục tiêu của liệu pháp kháng virus là đạt được sự ức chế virus, được định nghĩa là có ít hơn 200 bản sao HIV trên mỗi ml máu, sẽ giúp:
Nguy cơ phát triển virus kháng thuốc thấp hơn
Kết quả lâm sàng tốt hơn tương quan với việc tăng tuổi thọ
Giảm lây truyền HIV đến mức không có nguy cơ cho bạn tình không bị nhiễm bệnh (một chiến lược thường được gọi là điều trị như phòng ngừa).
Mặt khác, sự gia tăng tải lượng virus thường có thể là dấu hiệu của thất bại điều trị, tuân thủ thuốc kém hoặc cả hai.
Điều quan trọng cần lưu ý là người nhiễm HIV cần phải tuân thủ dùng thuốc để đảm bảo ức chế virus đến mức không thể phát hiện được. Việc tuân thủ không đều, không chỉ làm giảm khả năng đạt được điều này, mà còn làm tăng khả năng thất bại trong điều trị, do tạo điều kiện cho virus kháng thuốc phát triển. Mối quan hệ nhân quả này là lý do tại sao phải luôn kiểm tra việc tuân thủ điều trị trước khi thay đổi liệu pháp.
Nên theo dõi thường xuyên số lượng CD4 và tải lượng virus. Những bệnh nhân có thể duy trì số lượng CD4 trên 500 tế bào/µL thỉnh thoảng có thể được xét nghiệm theo chỉ dẫn của bác sĩ điều trị.