Những điều chưa biết về tập 'Thơ tù' của Anh hùng Nguyễn Tài

Vừa qua, NXB CAND đã tái bản lần 2 (có sửa chữa, bổ sung) cuốn hồi ký 'Đối mặt với CIA' của đồng chí Nguyễn Tài (bí danh Tư Trọng) - nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an), Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Lần tái bản này được bổ sung thêm phần phụ lục, trong đó có các sáng tác thơ mà Anh hùng Nguyễn Tài đã làm trong thời gian bị biệt giam.

Những bài thơ ấy ít nhiều cho thấy, ông mang trong mình “gen di truyền” từ người cha nổi tiếng - nhà văn Nguyễn Công Hoan...

Nhà văn Nguyễn Công Hoan có 3 người con, chỉ có người con gái út Lê Minh (tên thật là Nguyễn Thị Tài Hồng) theo nghiệp cha, trở thành một nữ nhà văn có sự nghiệp văn học được văn giới ghi nhận.

Ông bà Nguyễn Công Hoan và con trai Nguyễn Tài mới từ nhà tù Mỹ - ngụy trở về Hà Nội sau 11 năm xa cách. (Ảnh chụp ngày 26/6/1975)

Ông bà Nguyễn Công Hoan và con trai Nguyễn Tài mới từ nhà tù Mỹ - ngụy trở về Hà Nội sau 11 năm xa cách. (Ảnh chụp ngày 26/6/1975)

Người con trai cả của ông là Nguyễn Tài Khoái hy sinh trong kháng chiến chống Pháp, còn người con trai thứ 2 của ông là Nguyễn Tài (tên thật là Nguyễn Tài Đông) tham gia cách mạng từ sớm. Trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ông tham gia Thành ủy Hà Nội rồi về công tác tại Bộ Công an.

Từ năm 1957 đến trước khi xung phong vào Nam chiến đấu, đồng chí Nguyễn Tài được phân công trực tiếp làm Cục trưởng Cục Bảo vệ chính trị, được giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy công tác đấu tranh chống gián điệp - biệt kích, góp phần làm thất bại âm mưu phá hoại miền Bắc của địch.

Lên đường vào Nam chiến đấu trên chuyến tàu không số xuất phát tại Đồ Sơn (Hải Phòng) ngày 21/3/1964, sau đó đồng chí Nguyễn Tài công tác tại Ban An ninh Trung ương Cục miền Nam, tham gia cấp ủy Đảng khu Sài Gòn - Gia Định (T4) và trực tiếp làm Trưởng Ban An ninh khu này. Ông bị địch bắt ngày 23/12/1970, khi đang trên đường đi công tác và trải qua 4 năm, 4 tháng, 10 ngày bị giam cầm, phải chịu nhiều hình thức tra tấn hết sức dã man của địch. Trưa 30/4/1975 quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn, tiếp cận và giải thoát cho đồng chí Nguyễn Tài khỏi nhà tù số 3 Bạch Đằng.

Trong cuốn hồi ký “Đối mặt với CIA”, tác giả Nguyễn Tài đã chia sẻ rằng: “Tôi đã trải qua nhà tù Bến Tre, Cần Thơ, Sư đoàn 7 ngụy, 3 Bạch Đằng. Ở đây, sau 8 tháng bị ngụy tra tấn, không đạt kết quả như chúng mong muốn, đột nhiên tháng 4/1972, tôi bị chuyển trại giam và do Mỹ hỏi cung. Xà lim mới, vuông, mỗi bề 2m, có đèn sáng suốt đêm ngày, ở đây địch đã bí mật bố trí máy ghi âm, ghi hình để theo dõi mọi biến động của tôi liên tục 24 giờ trong ngày.

Trong hoàn cảnh bị biệt giam từ đầu đến cuối như thế, nhân lúc không bị tra tấn, tôi đã tập làm thơ. Từ trước, tôi chưa bao giờ làm thơ. Nay tập làm, là để sử dụng thì giờ một cách có ích, ghi lại tâm tư tình cảm của mình qua các sự kiện; cũng để tự động viên trong cuộc đấu tranh trực diện với quân thù. Cũng để chứng tỏ, tuy thân thể bị tù, nhưng đầu óc vẫn tự do. Vậy thơ của tôi, trước hết là để cho tôi. Nó thuộc loại thơ tự do. Chỉ để đọc chứ không để ngâm. Nhẩm làm, nhẩm nhớ đến thuộc lòng. Ra tù, có giấy bút, tôi mới ghi lại...”.

Tập “Thơ tù” của người chiến sĩ an ninh Nguyễn Tài bao gồm khoảng 40 bài thơ, trong đó có bài “Diễu hành” ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt: khi địch dùng đủ các hình thức tra tấn dã man nhất, trong đó có việc bắt ngồi và thức liền 14 ngày đêm.

Anh hùng Nguyễn Tài kể lại: “Tôi mê sảng, thấy như trước mặt là một quảng trường, cờ phần phật gió, có cuộc diễu hành, mà hình như toàn là các đồng chí đã hy sinh. Tôi chẳng hiểu mình còn sống hay đã chết. Đó là hình ảnh mà năm sau, tôi đã tập làm một bài thơ, với nhan đề “Diễu hành”, để mô tả các đợt bị tra tấn mà tôi đã trải qua năm 1971”.

Diễu hành” là bài thơ dài nhất trong tập “Thơ tù” của đồng chí Nguyễn Tài, trong đó có nhiều đoạn rất ấn tượng với những câu thơ mang tính biểu tượng, ẩn dụ về hồn thiêng sông núi, về dấu ấn văn hóa lịch sử và công cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc:

Mày mê ư? Không có! Rõ ràng
Giữa sân vận động.
Trên lớp cỏ xanh, một tấm bản đồ hiển hiện
Với Ngôi Sao Đỏ lồng lộng ở giữa Hồ Gươm
Đâu rồi?
Sao không thấy nữa
những người biểu diễn thanh niên,
Mà chỉ có một cây nêu trên sân cỏ,
với một chàng lực sĩ;
không rõ; hay một nhà đạo sĩ;
phảng phất Vua Hùng,
mà lại tự núi Hồng,
trước đèn xem sách Tố Như.
Mà lại càng giống như
Người con hiếu thảo của xứ Kim Liên,
bên bờ sông Lam còn trào máu đỏ,
mộc mạc bình thường trên vai, từ ấy ra đi
Không. Đích rồi.
Tấm hài nhi của làng Phù Đổng
Đang rùng mình trỗi dậy...

Trong số những bài thơ mà đồng chí Nguyễn Tài đã làm và ghi nhớ để “tự động viên mình” cho đến ngày được giải thoát ra khỏi lao tù, có những bài thơ đã thể hiện một tâm hồn nhạy cảm, am hiểu về văn hóa dân tộc, đậm sâu tình yêu quê hương đất nước và lòng yêu thương con người trong dáng hình của một chiến sĩ quả cảm, kiên trung không đòn roi nào của quân thù khuất phục được. Đặc biệt là bài “Ngọn lửa” ông viết ngày 19/8/1972:

Hôm nay, ngày Hai tháng Chín,
Ngoài ấy Hà Nội
Có thể không có
duyệt binh, diễu hành
vui chơi thường lệ
Để cho Hải Phòng có thể
Hoàn thành bốc dỡ nhà máy điện nồi hơi
Để cho muối thồ có thể
tiếp tục vượt đèo Tây Bắc.
Để cho “ba trăng” có thể
Thêm mùa lúa mới đầy đồng.
Để cho trẻ con có thể
thêm trường tưng bừng khai giảng
Để cho xe lửa qua bè sông Mã có thể
đem về áo mới em bé Nghệ An
Và có thể
Sao vàng Vĩnh Linh cùng Gio Linh sát cánh
Hai ngọn cờ hồng trước gió tung bay...

Vợ chồng Anh hùng Nguyễn Tài, năm 2000.

Vợ chồng Anh hùng Nguyễn Tài, năm 2000.

Đồng chí Nguyễn Tài khi tình nguyện vào miền Nam chiến đấu trong những năm tháng chiến tranh ác liệt nhất, đã để lại Hà Nội người vợ hiền và 4 đứa con thơ đang tuổi ăn, tuổi lớn với một tình yêu sâu đậm, thủy chung. Bài thơ “Câu chuyện về những cánh chim” ông viết ngày 6/9/1972 dành cho người vợ của mình nhân kỷ niệm ngày cưới có đoạn như trở thành biểu tượng của hạnh phúc gia đình, lứa đôi khi được sống trong hòa bình:

Ngày mà
Tôi đã làm Cha
Cùng người yêu ôm ấp 4 con chim nhỏ
Chúng đậu trên đầu
Chúng bám trên cổ
Chúng sà trên gối
Chúng mổ trên tay
Những con bồ câu mới ra ràng,
Đôi mắt to đen, trán cao, in hình chim mẹ.
Dưới trời trong sáng ấm áp chan hòa
Tha hồ bay nhảy, khắp vườn hoa rộng bao la...

Sau khi được giải thoát khỏi nhà tù và liên lạc được với tổ chức, do chưa thể về Hà Nội ngay, người chiến sĩ quả cảm Nguyễn Tài đã gửi thư cùng tập “Thơ tù” mà ông đã vội vàng ghi lại cùng một số hiện vật về cho gia đình qua một người bạn.

Trong lá thư đề ngày 2/5/1975, đồng chí Nguyễn Tài kể lại về sự ra đời tập thơ như sau: “Có tập thơ làm cho qua thì giờ, nay con tạm ghi lại tập thơ đó và gửi về, chung cho gia đình và cũng cho riêng Minh. Các thơ đều có ghi thời gian làm, bao giờ gia đình con sẽ giải thích từng bài về ý nghĩa.

Đây chỉ nói vài bài: bài “Diễu hành” là làm 1 năm sau, lúc mà tụi nó bắt ngồi và thức liền 14 ngày đêm, trong bài đó có những danh từ mô tả sự tra tấn, hỏi cung, sự nhớ đến các người đã hy sinh cho cách mạng mà mình phải noi theo, và cuộc diễu hành của những người đã hy sinh được gọi là cuộc diễu hành nửa đêm mồng 1; lúc thức đến ngày thứ 10 thì mắt đã không bình thường và như nhìn thấy rõ ràng cuộc diễu hành đó, vì vậy mới có cảm xúc để làm bài thơ đó đúng 1 năm sau...”.

Bà Nguyễn Ngọc Đoan, con gái Anh hùng Nguyễn Tài cho biết, theo lời kể của cô Lê Minh, ngày ấy nhà thơ Xuân Diệu đang làm lãnh đạo Tạp chí Tác phẩm Mới, khi xem tập thơ đã đánh dấu “khuyên” vào một số bài và đề nghị đăng vào số Chiến thắng của năm đó. Nhưng, vì cẩn thận, bà Lê Minh đã đề nghị: “Để hỏi tác giả đã” thì tác giả Nguyễn Tài đã trả lời rằng “Không đăng báo vội, lúc này hãy coi là kỷ niệm với gia đình thôi...”.

Và, như thế, đến tận năm 2025, những vần thơ xúc động ra đời trong lao tù của Anh hùng Nguyễn Tài mới được giới thiệu đến công chúng trong tập hồi ký “Đối mặt với CIA” nhân kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước và 80 năm Ngày Truyền thống lực lượng CAND.

Nguyệt Hà

Nguồn VNCA: https://vnca.cand.com.vn/tu-lieu-van-hoa/nhung-dieu-chua-biet-ve-tap-tho-tu-cua-anh-hung-nguyen-tai-i782348/