Lên non xem người Cơ Tu kết nghĩa sau sáp nhập
Trong tiếng trống, tiếng cồng chiêng ngân vang giữa đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, lễ hội truyền thống của đồng bào Cơ Tu lần thứ I ở xã Sông Kôn (TP Đà Nẵng) trở thành điểm hẹn văn hóa thiêng liêng giữa núi rừng. Ở đó, nghi lễ kết nghĩa Prơngooch giữa ba xã ATing, Jơ Ngây, Sông Kôn nay sáp nhập làm một đã tạo nên khoảnh khắc giàu xúc cảm, khắc sâu vào lòng hàng ngàn người dân và du khách gần xa.
Đây không chỉ là một nghi lễ văn hóa, mà còn là biểu tượng cho tinh thần đoàn kết, sự đồng thuận và khát vọng vươn lên của cộng đồng nơi thượng nguồn Trường Sơn.
Sợi dây gắn kết cộng đồng
Người Cơ Tu sống giữa bát ngát núi rừng đã lưu giữ nhiều nét đẹp văn hóa độc đáo, trong đó lễ kết nghĩa Prơngooch được xem là tinh túy, linh thiêng. Từ ngàn đời trước, trong đời sống cộng đồng, khi có hiềm khích, thậm chí hận thù giữa các gia đình, bản làng, đồng bào tìm đến Prơngooch để hóa giải.
Với sự chứng giám của thần linh, lễ kết nghĩa đã hàn gắn, thắt chặt tình đoàn kết và mở ra hành trình chung tay xây dựng cuộc sống mới.

Các già làng ở Sông Kôn thực hiện nghi lễ truyền thống trong lễ kết nghĩa 3 xã sau sáp nhập
Sau sáp nhập, xã Sông Kôn có hơn 8.700 nhân khẩu, chủ yếu là người Cơ Tu, sinh sống ở 11 thôn. Ngày hội văn hóa truyền thống Cơ Tu lần thứ I của xã được tổ chức, thu hút hàng ngàn người dân cùng du khách. Đây là sự kiện văn hóa quy mô lớn đầu tiên sau khi sáp nhập, trở thành dấu mốc quan trọng khơi dậy sức mạnh cộng đồng.
Ngay từ sáng sớm, từng dòng người từ khắp các bản làng đã đổ về trung tâm xã. Trong màn sương giăng mờ, khi ánh nắng đầu ngày xuyên qua những tán cây, tiếng cồng chiêng rộn ràng nổi lên như lời mời gọi thiêng liêng. Không khí lễ hội bừng lên, mang theo niềm háo hức của dân làng.
Điều đặc biệt, đây là lần đầu tiên lễ kết nghĩa diễn ra ở quy mô 3 xã cũ nhập một. Các già làng uy tín đã nhiều ngày họp bàn, thống nhất cách thức, chuẩn bị lễ vật, dựng cây nêu, mua trâu để tái hiện nghi lễ truyền thống.
Tiếng chiêng cất lên, nghi lễ chính thức bắt đầu. Già làng của Sông Kôn trong bộ trang phục thổ cẩm rực rỡ, đón tiếp các già làng của hai xã cũ. Một mâm lễ đơn sơ được bày ra, những câu hát lý, nói lý bằng tiếng Cơ Tu vang vọng, khẳng định tinh thần đoàn kết. Những ly rượu cần truyền tay nhau, ánh mắt, nụ cười chan chứa sự sẻ chia. Sau đó, các già làng cùng tiến ra sân, đi quanh cây nêu nơi con trâu được buộc sẵn, để làm lễ cúng báo với thần linh về sự kiện trọng đại: ba xã nhập một, mở ra thời kỳ mới.
Ông Đỗ Hữu Tùng, Chủ tịch UBND xã Sông Kôn cho hay, nghi lễ kết nghĩa của 3 xã A Ting, Jơ Ngây và Sông Kôn khi nhập làm một sẽ giúp củng cố tinh thần đoàn kết, đồng lòng hơn trong cán bộ, nhân dân và các già làng trong sinh hoạt, phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, góp phần xây dựng Sông Kôn ngày càng giàu đẹp.

Thiếu nữ Cơ Tu nhảy múa quanh trâu trong lễ truyền thống. Ảnh: Nguyễn Thành
Nghi lễ khấn báo với trời đất, núi rừng, cùng lời thề ước kết nghĩa, đã kết nối con người lại trong một cộng đồng bền chặt. Sau cùng, tiếng chiêng, tiếng trống vang vọng, điệu múa tung tung - dá dá dập dìu quanh cây nêu, tất cả hòa quyện thành bản hợp xướng văn hóa đầy mê hoặc.
Gìn giữ và bồi đắp văn hóa vùng cao
Lễ hội Sông Kôn không chỉ là nơi diễn ra nghi lễ Prơngooch, mà còn tái hiện nhiều phong tục cổ truyền của người Cơ Tu. Hình ảnh con trâu buộc bên cây nêu gợi nhắc ký ức về nghi lễ đâm trâu nghi thức từng được vận động loại bỏ, nhưng nay được phục dựng theo cách nhân văn hơn.
Trong lễ đâm trâu, thay vì đâm đến chết như xưa, thì nay một vị già làng uy tín nhất chỉ thực hiện nghi thức tượng trưng, rồi dân làng cùng vật trâu mổ thịt để dân làng mừng hội. Cảnh tượng máu me, rùng rợn đã được loại bỏ, nhưng linh hồn của nghi lễ với những bài cúng, điệu khóc trâu, khấn báo thần linh vẫn được giữ nguyên và bảo tồn.

Trẻ em Cơ Tu tham gia biểu diễn trong lễ hội truyền thống. Ảnh: Nguyễn Thành
Cùng với nghi lễ cúng thần linh, đâm trâu, kết nghĩa những giá trị phi vật thể như nói lý hát lý, múa tung tung dá dá, đánh trống chiêng… chính là hồn cốt của lễ hội vùng cao. Ở đó, khi thực hiện các nghi lễ, các buổi hát, già làng, nghệ nhân trở thành những “người giữ lửa”, vừa truyền dạy cho lớp trẻ, vừa giới thiệu với du khách gần xa.
Già Bhling Blóo, một người uy tín ở Sông Kôn chia sẻ: “Nếu chỉ biểu diễn cho khách xem thì chưa đủ, mà phải để họ cùng được đánh chiêng, múa, cùng ăn cơm lam với dân làng mình”. Già Blóo cho biết, trong mỗi thôn đều có câu lạc bộ hát lý nói lý, để thế hệ trẻ được tiếp cận và nối tiếp bản sắc của cha ông.
Em Zơ Râm Niêm, 14 tuổi là thành viên đội múa thôn Bhlô Bền, đã tham gia biểu diễn từ năm lên 9. Trong dáng vẻ nhỏ nhắn, Niêm say sưa hòa mình theo nhịp chiêng, điệu múa dâng trời, nhận về những tràng pháo tay nồng nhiệt của dân làng và khách xem. “Em tập luyện mệt lắm, nhưng rất vui và tự hào vì được biểu diễn trước đông người, được mang văn hóa dân tộc mình đến với khách thập phương”, Niêm hồn nhiên chia sẻ.
Không chỉ am hiểu về văn hóa, nhiều người trẻ Cơ Tu ngày nay còn biết biến văn hóa thành cơ hội mưu sinh. Đinh Thị Thìn ở Làng du lịch cộng đồng Bhơ Hôồng vừa dạy học, vừa làm hướng dẫn viên, phát triển homestay, giới thiệu nét đẹp văn hóa đến du khách. Thìn là một trong những điển hình trong việc đưa văn hóa của đồng bào Cơ Tu trở thành nền tảng để phát triển kinh tế - xã hội, tạo sinh kế mới cho cộng đồng.
“Nhờ phát triển du lịch kết hợp nghề truyền thống đan lát, thổ cẩm, biểu diễn văn hóa truyền thống nên đời sống người dân trong thôn được cải thiện, nhiều du khách nhất là du khách nước ngoài lên làng nhiều hơn”, Thìn cho biết.
Từ những nghi lễ cổ xưa, lễ hội truyền thống, điệu hát lý hôm nay ở Sông Kôn đã chứng minh sức sống mãnh liệt của văn hóa Cơ Tu. Ở đó, cả một vùng đất mang tên dòng Sông Kôn huyền thoại, nay đã mở rộng gấp 3 lần, không chỉ giữ được hồn làng, mà còn biết biến văn hóa thành động lực phát triển.
Ông Nguyễn Xuân Nghiêm, Bí thư Đảng ủy xã Sông Kôn cho biết: Đại hội Đảng bộ xã nhiệm kỳ 2025 - 2030 đã đề ra mục tiêu đưa Sông Kôn trở thành xã văn hóa giàu bản sắc của TP Đà Nẵng mới. Xã cũng xác định bảo tồn văn hóa là một trụ cột phát triển kinh tế - xã hội của địa phương trong thời kỳ mới, thời kỳ lịch sử.