Những điều kiện cần và đủ để Việt Nam đạt 12 người/ 1 vạn dân về nhân lực KHCN
Theo thầy Bùi Văn Hồng, để đạt mục tiêu trên, cần đặc biệt chú trọng đến các chương trình đào tạo sau đại học theo định hướng nghiên cứu.
Một trong những mục tiêu của Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là "đến năm 2030, nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo đạt 12 người trên một vạn dân; có từ 40 - 50 tổ chức khoa học và công nghệ được xếp hạng khu vực và thế giới".
Để đạt được mục tiêu này vào năm 2030, theo đại diện một số cơ sở giáo dục đại học, viện nghiên cứu cần xây dựng chính sách thu hút, hỗ trợ các nhà khoa học đồng thời nâng cao chất lượng đào tạo, nhất là sau đại học.
Tỷ lệ nhân lực khoa học và công nghệ trên một vạn dân hiện vẫn còn cách xa so với mục tiêu
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Văn Hồng - Viện trưởng Viện Sư phạm Kỹ thuật, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, việc Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030 nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo đạt 12 người trên một vạn dân hoàn toàn phù hợp trong bối cảnh khoa học, công nghệ đang phát triển nhanh và có tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội như hiện nay.
Nếu nhanh chóng phát triển và làm chủ công nghệ trong nhiều lĩnh vực quan trọng, Việt Nam sẽ chủ động trong giải quyết những vấn đề thực tiễn, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, cũng như an ninh, quốc phòng.
Theo thầy Hồng, hiện nay, số lượng người làm nghiên cứu khoa học chủ yếu đang công tác tại các trường đại học, học viện và viện nghiên cứu. Tại các trường đại học, tất cả giảng viên đều thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học hàng năm theo quy định.
Tuy nhiên, hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên là hoạt động kiêm nhiệm và song song với hoạt động giảng dạy, nên thời gian sử dụng cho nghiên cứu khoa học còn ít dẫn tới số lượng chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực nghiên cứu chưa nhiều. Trong khi đó, đất nước đang có nhu cầu cao cả về số lượng và chất lượng đối với nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Văn Hồng - Viện trưởng Viện Sư phạm Kỹ thuật, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh NVCC
Do đó, để nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo đạt 12 người trên một vạn dân, thầy Hồng cho rằng cần chú trọng một số nhiệm vụ.
Thứ nhất, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ làm nghiên cứu. Trong đó, đặc biệt chú trọng đến các chương trình đào tạo sau đại học theo định hướng nghiên cứu, phát triển các chương trình này cả về quy mô và chất lượng đào tạo để phát triển đội ngũ những người làm nghiên cứu khoa học. Đồng thời, các cơ sở đào tạo cần có những chính sách phù hợp để hỗ trợ, thu hút người học tham gia các chương trình đào tạo sau đại học theo hướng nghiên cứu.
Thứ hai, xây dựng chính sách thu hút, hỗ trợ các nhà khoa học từ các trường đại học, học viện và viện nghiên cứu. Vì đây là đội ngũ nghiên cứu khoa học chiếm số lượng nhiều và làm việc trong môi trường thuận lợi để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu. Bên cạnh đó, thu hút, phát huy vai trò đội ngũ làm nghiên cứu khoa học từ doanh nghiệp và các tổ chức khác ngoài xã hội.
Thứ ba, bổ sung các chính sách hỗ trợ, thúc đẩy trường đại học, học viện và viện nghiên cứu phát triển nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Thành lập các nhóm nghiên cứu và kết hợp doanh nghiệp triển khai nghiên cứu theo hướng thực nghiệm, có sản phẩm phục vụ giải quyết vấn đề thực tiễn của xã hội.
Trong khi đó, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Đình Duy - Trưởng phòng Phòng Đào tạo Sau Đại học và Khoa học công nghệ, Trường Đại học Công nghệ Thông tin, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh bày tỏ, mục tiêu đưa khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của Việt Nam đạt mức tiên tiến ở nhiều lĩnh vực quan trọng vào năm 2030 thể hiện khát vọng vươn lên mạnh mẽ, hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển của đất nước.
Tuy nhiên, Nghị quyết 57 cũng chỉ ra thực trạng quy mô, tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia còn khoảng cách xa so với nhóm các nước phát triển.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Đình Duy (ngoài cùng bên phải) - Trưởng phòng Đào tạo Sau Đại học và Khoa học công nghệ, Trường Đại học Công nghệ Thông tin, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh website nhà trường
Với dân số hơn 100 triệu người, đồng nghĩa với việc Việt Nam cần khoảng 120.000 nhà nghiên cứu để đến năm 2030, đạt 12 nhà nghiên cứu trên một vạn dân. Đây là một con số đặt mục tiêu. Song, ngoài yêu cầu về số lượng nguồn nhân lực, yếu tố chất lượng cũng cần được quan tâm.
Để giải quyết bài toán về nguồn nhân lực này, việc thu hút, hỗ trợ người học nghiên cứu khoa học, công nghệ cần được chú trọng. Cùng với đó, Việt Nam cũng cần có thêm các chuyên gia với khả năng giải quyết những bài toán thực tiễn của doanh nghiệp và xã hội, có năng lực chuyển hóa kết quả nghiên cứu trong phòng thí nghiệm thành các sản phẩm thương mại hóa, qua đó đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế.

Sinh viên Trường Đại học Công nghệ Thông tin, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh website nhà trường
Còn theo Tiến sĩ Hà Thúc Viên - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Việt Đức, hiện nay, nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam có nguy cơ thiếu hụt, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ cao. Đồng thời, chất lượng đào tạo và kết nối doanh nghiệp - giáo dục vẫn chưa đồng đều, năng lực nghiên cứu từ trường đại học vẫn bị đánh giá thấp, cùng hạ tầng cơ sở dữ liệu chưa có nhiều cải thiện.
Mục tiêu đưa khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của Việt Nam đạt mức tiên tiến ở nhiều lĩnh vực quan trọng là bước đi đầy tham vọng, cần thiết song cũng đem tới nhiều thách thức. Trong đó, việc đề ra mục tiêu nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo đạt 12 người trên một vạn dân không chỉ là sự quyết tâm, mà còn đặt ra áp lực lớn về việc cần đổi mới căn bản về thể chế chính sách, môi trường và nguồn lực.
Bởi hiện nay, Việt Nam đang đối mặt với nguy cơ thiếu hụt nghiêm trọng cả về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo. Ngoài ra, tỷ lệ nhà nghiên cứu trên một vạn dân vẫn còn thấp, cùng với sự khan hiếm nghiên cứu sinh, trợ lý nghiên cứu và các chuyên gia quốc tế có kinh nghiệm.
Để giải quyết thách thức này và đóng góp vào mục tiêu quốc gia, thầy Viên cho biết, Trường Đại học Việt Đức đã xây dựng kế hoạch phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2026-2030 tập trung vào ba trụ cột chính.
Một là, tăng quy mô và đa dạng hóa đội ngũ. Nhà trường đặt mục tiêu tuyển thêm ít nhất 10 chuyên gia quốc tế, nâng tổng số giảng viên cơ hữu lên 150 người. Đồng thời, trường sẽ đào tạo ít nhất 20 nghiên cứu sinh mỗi năm và mở rộng các chương trình tiến sĩ theo chuẩn quốc tế, bao gồm cả các chương trình song bằng với đối tác Đức.
Hai là, nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu. Trường hoàn thiện chính sách hỗ trợ nghiên cứu cho giảng viên, lên kế hoạch thành lập Quỹ hỗ trợ nghiên cứu sinh và trợ lý nghiên cứu. Bên cạnh đó, thành lập các đơn vị mới như trung tâm trí tuệ nhân tạo, trung tâm khoa học dữ liệu và VGU Innovation Hub để tạo lập một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo liên ngành mạnh mẽ.
Ba là, thúc đẩy ứng dụng và chuyển giao công nghệ. Trường cam kết hợp tác ít nhất 5 dự án với doanh nghiệp mỗi năm nhằm đưa kết quả nghiên cứu vào thực tiễn. Tổ chức định kỳ “Tuần lễ Nghiên cứu và Đổi mới sáng tạo” để kết nối các dự án khởi nghiệp và công ty spin-off, thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu.
Trường đại học, viện nghiên cứu cần nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học
Nghị quyết 57 đặt mục tiêu có từ 40 - 50 tổ chức khoa học và công nghệ được xếp hạng khu vực và thế giới vào năm 2030. Theo thầy Hà Thúc Viên, khi đạt được mục tiêu này, nền khoa học công nghệ của nước ta sẽ có nhiều thuận lợi, đó là:
Nâng cao uy tín và vị thế quốc tế. Việt Nam sẽ là điểm đến thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào các lĩnh vực công nghệ tiên tiến. Từ đó, tăng cường khả năng hợp tác nghiên cứu với những tổ chức hàng đầu thế giới. Ngoài ra, điều này cũng giúp thu hút chuyên gia trong nước và quốc tế đến Việt Nam làm việc, nghiên cứu, mở rộng cơ hội tham gia mạng lưới nghiên cứu toàn cầu.
Cùng với đó, thúc đẩy phát triển kinh tế và đổi mới. Các tổ chức khoa học, công nghệ mạnh mẽ sẽ trở thành đầu mối quan trọng kết nối giữa doanh nghiệp và trường đại học, thúc đẩy nhanh quá trình thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Điều này sẽ tạo ra các sản phẩm công nghệ cao, đẩy mạnh chuyển đổi số và công nghiệp 4.0, đóng góp trực tiếp vào tăng trưởng kinh tế. Việc này cũng sẽ giúp hình thành các hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quy mô lớn và chuyển giao công nghệ.
Mặt khác, củng cố an ninh quốc gia và năng lực tự chủ. Khi năng lực khoa học, công nghệ trong nước được nâng cao, Việt Nam sẽ giảm sự phụ thuộc công nghệ từ nước ngoài, đặc biệt trong các lĩnh vực chiến lược.
Còn theo thầy Bùi Văn Hồng, khi Việt Nam có các tổ chức khoa học, công nghệ được xếp hạng trong "top" khu vực và trên thế giới sẽ tạo nên nhiều sáng tạo kỹ thuật, công nghệ và vận dụng hiệu quả vào thực tế. Kết quả này tạo động lực phát triển hoạt động nghiên cứu khoa học, làm chủ công nghệ và tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế, xã hội đất nước.
Để đạt được mục tiêu trên, các trường đại học, viện nghiên cứu của Việt Nam cần phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học; thu hút giảng viên, nhà khoa học tham gia nghiên cứu; thành lập các nhóm nghiên cứu trọng điểm, liên ngành; thúc đẩy những hướng nghiên cứu thực nghiệm, tạo ra sản phẩm và giải pháp công nghệ phục vụ giải quyết vấn đề thực tiễn và tăng cường công bố quốc tế.
Đồng thời, cần phát triển các chương trình đào tạo trình độ sau đại học theo định hướng nghiên cứu; thu hút, kết nối doanh nghiệp và tổ chức xã hội thực hiện nghiên cứu khoa học; liên kết quốc tế trong đào tạo, nghiên cứu khoa học và trao đổi học thuật.

Sinh viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh website nhà trường
Trong khi đó, thầy Lê Đình Duy nhấn mạnh, cơ sở giáo dục đại học và viện nghiên cứu cần đóng vai trò trung tâm vì đây là nơi trực tiếp tạo ra các công trình khoa học và đào tạo nhân lực, vốn là những yếu tố cốt lõi để đánh giá xếp hạng.
Do đó, nhiệm vụ cấp thiết của các đơn vị này là tập trung nguồn lực xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh, hướng tới việc tạo ra các công bố quốc tế có chất lượng cao. Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh hợp tác với doanh nghiệp để chuyển giao công nghệ và thương mại hóa kết quả nghiên cứu cũng cần được chú trọng. Cuối cùng, việc tăng cường tự chủ và mở rộng hợp tác quốc tế sẽ giúp tạo ra một môi trường nghiên cứu linh hoạt, hội nhập và có tính cạnh tranh cao hơn.