Những giai thoại về 'Hà Triều, Hoa Phượng' qua vở tuồng Tết
Ngày xuân kể chuyện về hai cây đại thụ của sân khấu cải lương để trân quý tinh thần lao động nghệ thuật của thế hệ vàng sân khấu cải lương
Nghệ thuật cải lương là một hình thức diễn xướng dân tộc, dễ nghe và nhất là dễ chuyển tải những thông điệp sâu sắc. Hai soạn giả được xem là cổ thụ của giới sáng tác Hà Triều, Hoa Phượng đã gắn liền với những giai thoại ngày tết.
Quên tay cụt, Thành Được mang ơn 2 thầy
Kịch bản "Tiếng hạc trong trăng" là một trong số những tuồng cải lương rất nổi tiếng vào những năm 1960, từng được tái dựng nhiều lần và đưa giọng ca vàng của cố NSƯT Thanh Nga thành danh. Hai tác giả Hà Triều, Hoa Phượng đã sáng tác và đo ni đóng giày để đẩy tên tuổi các nghệ sĩ thời đó lên hàng thượng thặng vào mùa xuân 1961.
Nội dung vở "Tiếng hạc trong trăng" kể về tấn bi kịch của cha con Xuyên Lan (Thanh Nga) và Thy Đằng (Thành Được). Do hoàn cảnh bị chia cắt, người cha biến mình thành tướng cướp chuyên đi dẹp trừ bọn tham quan, lấy của tham nhũng giúp dân nghèo, trong quá khứ khét tiếng ông đã bị cụt mất một cánh tay. Và trong một dịp tình cờ gặp lại người con gái ruột bị mù lòa, Thy Đằng đã hy sinh đôi mắt để mang lại ánh sáng cho con gái thất lạc lâu năm. Nhưng đau đớn hơn khi cô gái được sáng mắt, biết quá khứ cha mình là tướng cướp, Xuyên Lan đau khổ vì phải nhìn mọi thứ bằng đôi mắt của kẻ ác mà không hề hay biết đó chính là cha ruột của mình.
Các vai diễn trong vở đều hay, tạo ấn tượng với khán giả từ lời thoại cho đến bài ca, nhất là những câu vọng cổ thấm đượm nhân nghĩa. Hình tượng nhân vật được cấu trúc trong vở toát lên vẻ đẹp cao quý, qua đó đề cao tinh thần trượng nghĩa và sự hy sinh tuyệt vời của cha mẹ đối với con cái. Nghệ sĩ Thành Được diễn vai Thy Đằng bao giờ cũng phải buộc cánh tay trái vào thân mình rồi mặc chiếc áo bỏ dở một tay áo để diễn vai tướng cướp bị cụt tay. Đúng ngay mùng 3 tết diễn tại rạp Quốc Thanh, do ông có thói quen thích chơi bi da trước khi vào suất diễn, vì ngày tết diễn ba suất, cho nên ông quên cột cánh tay vào thân, đến khi gần ra sân khấu, hai soạn giả hôm đó dẫn bạn bè đi xem vở của mình, đứng bên cánh gà đã phát hiện, liền nhắc Thành Được bằng cách chỉ vào cánh tay mình.
"Lúc đó anh Thành Được đứng bên cánh gà trái, còn hai thầy Hà Triều, Hoa Phượng đứng bên cánh gà phải. Thấy cả hai thầy đều chỉ về phía cánh tay, anh Thành Được cứ tưởng ra dấu chúc chơi bi da thắng lớn. May mà nghệ sĩ Thanh Nga lúc đó cũng phát hiện, chị nhanh trí kéo tay áo của nghệ sĩ Thành Được. Lúc này ông mới hoảng hốt ứng biến ngay bằng cách cởi áo và dấu cánh tay để bước ra sân khấu. Khán giả không biết gì, nhưng đó là suất diễn mà nghệ sĩ Thành Được sau đó xin lỗi hai thầy tuồng vì sự sơ suất của mình suýt biến tướng cướp cụt tay thành ra một nhân vật khác" – NSND Đinh Bằng Phi kể lại, vì ông có đến rạp Quốc Thanh xem suất diễn "Tiếng hạc trong trăng", khi vãn hát cà phê với hai soạn giả, đã nghe kể chuyện ngày xuân về giai thoại này.
Viết tuồng trên mẫu thuốc lá
Với tài nghệ sáng tác sâu sắc, có góc nhìn thấu đáo về vấn đề được đặt ra và tạo nên khuynh hướng sáng tác độc đáo của từng giai đoạn, Hà Triều Hoa Phượng đã là đôi bạn tâm giao, tri âm, tri kỷ, tạo nên những dấu son đậm nét cho sân khấu cải lương thời hoàng kim. Nghệ sĩ Quốc Nhĩ kể lại, nếu các soạn giả khác cần nơi yên tĩnh để viết, không gian sáng tạo nghệ thuật cần sự chiêm nghiệm để nắn nót từng con chữ, thì soạn giả Hoa Phượng chuyên sáng tác ở quán cà phê vỉa hè. Không ở đâu xa, ngay bên cạnh rạp Quốc Thanh có quán cà phê là nơi ông ngồi hàn huyên cùng giới sáng tác. Nơi đó, tụ tập hàng ngày là soạn giả Kiên Giang, Hà Triều, Yên Lang, Yên Thảo, Thu An, Viễn Châu, Mộc Linh, Loan Thảo, Thế Châu, Nhị Kiều, Nguyễn Phương, Điêu Huyền…và các danh cầm: Hai Thơm, Chín Trích, Văn Vỹ, Tư Huyện, Năm Cơ… Bất chợt nghĩ ra ý tưởng gì là soạn giả Hoa Phượng liền viết trên những tờ giấy bạc của bao thuốc lá. Ông chỉ gạch đầu hàng những ý chính, rồi sau đó triển khai, bản nháp cuối cùng là khi trao đổi với soạn giả Hà Triều, và rồi những ý tưởng bay bổng của ông đã được cấu trúc thành kịch bản.
"Ngày tết là dịp bạn bè hàn huyên đủ chuyện từ gia thế cho đến đời gạo chợ, nước sông. Tổng kết một năm lênh đênh theo các gánh hát trên khắp lục tỉnh và các tỉnh thành miền trung, nên hai ông tích cóp nhiều ý tưởng, qua đó thăm dò thị hiếu, thị phần rồi phân khúc ra để viết tuồng cung cấp cho các đại bang cải lương xưa. Tính dân tộc thể hiện rõ nét là các vở cải lương của hai soạn giả Hà Triều, Hoa Phượng. Suốt mấy chục cái tết là gần hàng trăm kịch bản ra đời, bám sát hai đề tài xuyên suốt là chống ngoại xâm và giữ gìn giềng mối làng xóm, giữ gìn đạo đức, bản sắc văn hóa dân tộc. Tài nghệ của hai ông là đề cao chức năng cao cả của nghệ thuật cải lương đó là gắn kết mọi tầng lớp quần chúng để kiến tạo cộng đồng nhân văn, bền vững. Giữa cái ồn ào của thị tứ mà từng câu chữ trong kịch bản được viết sao mềm mại, thanh cao. Tính văn học và chiều sâu triết lý của từng câu ca đã để lại cho đời di sản quý mang tên Hà Triều, Hoa Phượng" – nghệ sĩ Quốc Nhĩ kể.
"Cấm bà bầu vào đoàn hát, nhưng tết thì …hốt bạc"
Vở cải lương "Đi biển một mình" là kỷ niệm khó quên một thời của đoàn Thanh Minh. Sau năm Mậu Thân 1968, các đoàn hát thời đó ở Sài Gòn rơi vào khủng hoảng, bà bầu Thơ lúc đó hoang mang vì không thể lo nồi cơm chung cho cả đoàn hát với những suất diễn ế ẩm. NSƯT Bảo Quốc kể, mẹ của ông là một bà bầu giỏi xoay trở, bà liền nghĩ ngay đến vở diễn cải lương phải ngắn gọn, mang tính hài hước để khán giả giải tỏa bớt những nhọc nhằn lo toan từ cuộc sống. Thế là bà mời hai soạn giả Hà Triều - Hoa Phượng đến để trao đổi.
"Thời đó, tục lệ kiêng cữ phụ nữ có thai đi vào hậu trường gánh hát, ông bà xưa cho rằng để hiện tượng đó xảy ra sẽ dẫn đến chuyện xui trong đoàn hát. Nhưng hai soạn giả Hà Triều, Hoa Phượng nghĩ khác.
Cả hai ông đều cho rằng vậy cứ duy trì suy nghĩ này đào hát có bầu thì không lẽ phải nghỉ hát cho đến ngày vía con? Và cũng từ chuyện cái bầu hai ông đã viết kịch bản "Đi biển một mình", chỉ dài 1 giờ rưỡi. Vừa tung ra, khán giả đã đầy chật rạp. Vở này cứu cả đoàn Thanh Minh mùa tết năm 1969. Cho đến bây giờ kịch bản cải lương này vẫn còn tính thời sự vì nội dung cười vào thói giả dối của con người" – NSƯT Bảo Quốc kể lại.
"Ông cò chơi đánh bài coi chừng bị bắt"
Tên gọi "Cải lương" xuất phát từ hai câu đối xuất hiện tại các rạp vào những năm 1920: "CẢI cách hát ca theo tiến bộ. LƯƠNG truyền tuồng tích sánh văn minh". Rõ ràng, ngay từ khi khai sáng, các bậc hiền tài đã kiến tạo nghệ thuật cải lương không lạc hậu mà luôn tiến bộ, văn minh. Tiếp nối truyền thống đó, hai soạn giả Hà Triều, Hoa Phượng đã sáng tác nhiều kịch bản hay để bao lớp nghệ sĩ đã và đang làm nghề vì tâm nguyện đó mà sáng tạo, vinh danh sự đổi mới.
NSƯT Thanh Nguyệt kể, hồi còn nhỏ, bà thích tết vì lúc nào cũng được mẹ dẫn đến xem cải lương tại rạp, còn về nhà thì xem các chương trình truyền hình tết thế nào cũng có cải lương. Lớn lên, được xem vở "Tuyệt Tình Ca" hay còn là "Ông Cò Quận 9" là một tác phẩm sân khấu nổi tiếng của tác giả Hoa Phượng, đã tạo được dấu ấn trong lòng khán giả mộ điệu nhiều thập niên qua.
"Đây là một vở cải lương đề tài tâm lý xã hội với những tình tiết lôi cuốn, hấp dẫn và thắm đượm tính nhân văn nên có thể nói, đây là một trong số những tác phẩm kinh điển của sân khấu Cải lương. Hồi đó, Hồng Nga đóng vai cô giáo Lan, diễn cặp với cậu Mười Út Trà Ôn, có lần nghe Hồng Nga kể trong dịp tết, biết cậu Mười thích đánh bài cào đầu năm để thử xem mình hên – xui thế nào trong ngày tết, Hồng Nga biết chuyện nên lúc diễn cảnh cô giáo Lan gặp lại chồng mình sau bao năm xa cách, do micro thời đó treo nên diễn viên nói nhỏ với nhau khán giả cũng không nghe được.
Lợi dụng cơ hội này, Hồng Nga thay vì khóc đã quay lưng lại nói nhỏ: "Đóng vai ông cò mà đi đánh bài là coi chừng cảnh sát bắt". NS Út Trà Ôn lúc đó đang diễn tâm trạng xúc động, lại chuẩn bị ca vọng cổ nhưng nghe câu nói đó phải nín cười. Không ngờ suất diễn đó soạn giả Hoa Phượng có mặt, ông đã la rầy Hồng Nga, yêu cầu phải nghiêm túc trong lúc diễn. Còn cậu Mười Út Trà Ông sau suất diễn đó đã đi tìm Hồng Nga để tính sổ, nhưng Hồng Nga biết thân phận đã trốn mất không dám gặp cậu Mười sợ bị…ăn chửi" – NSƯT Thanh Nguyệt kể.
Cải lương cách đây nhiều thập niên là "món ăn tinh thần" không thể thiếu của đông đảo công chúng thuộc nhiều thành phần, lứa tuổi. Với hai soạn giả tài hoa mà công chúng mến mộ, những giai đoạn vui ngày tết đã được nhắc nhớ như một niềm tin yêu vào sự gắn kết khó rứt khỏi lòng dân tộc một bộ môn nghệ thuật đã hơn 100 tuổi.
NSƯT Ca Lê Hồng khẳng định: "Trong thời buổi khuynh đảo của nhiều phương tiện giải trí, làm sao để cải lương bền bỉ giá trị vốn có, sân khấu cải lương vẫn có sức hút đối với công chúng, nhiệm vụ của những người trong cuộc cũng khá nặng nề.
Noi theo tấm gương lao động nghệ thuật của tiền nhân đi trước, các thế hệ soạn giả hôm nay hãy trân quý tác phong làm việc và sự cần cù của các bậc hiền tài, để qua đó cảm nhận rằng sự dấn thân của họ đã góp phần mang lại mùa xuân cho bộ môn cải lương, để thực hiện sứ mệnh gìn giữ giá trị của nghệ thuật cải lương, đưa khán giả đến với sàn diễn trong mùa tết Ất Tỵ 2025".