Những giống lúa cổ trên đất bazan

Thời trước, người Tây Nguyên phổ biến là canh tác lúa cạn. Cách đơn giản là đến cuối mùa khô chọn một khoảnh rừng, chặt những cây nhỏ, cây lùm bụi, để nguyên những cây cao lớn theo một mật độ thưa tự nhiên, chờ cho lá cành khô nỏ thì đốt. Sau đốt, cả đám đất ấy đầy tro than, sạch hết lá cỏ. Đất rừng tơi xốp nẩy lên màu mỡ. Rừng được đốt coi như một lần diệt tiệt các loài côn trùng sâu hại.

Những cây cao lớn bị cháy sém gốc, coi như được dọn thực bì, được vệ sinh mầm bệnh, thiêu sạch mầm cỏ, hạt cỏ, chẳng những rất ít ảnh hưởng mà còn giúp cây có đời sống tốt hơn. Đám rẫy mới vẫn còn những cây đại thụ, gốc rễ nằm nguyên trong lòng đất, cả bề mặt hầu như không bị tác động, cấu tượng đất không bị đào bới, không bị phá vỡ, màu không bị rửa trôi. Đất ấy chỉ cần dùng cây gỗ nhọn chọt nhẹ đã tơi mềm, bỏ vào đó mấy hạt lúa. Yên chí, mấy hạt mưa thấm đất, lúa sẽ lũ lượt nẩy vươn mầm. Đây là cách canh tác lúa tối cổ “phát đốt chọc tỉa”. Nương lúa hầu như rất ít cỏ, cứ thế mà tốt. Đó chủ yếu là những cây lúa dài ngày thân cao. Lúa ấy thì con gái lên đến tầm ngực người lớn. Thời chiến tranh, người ta có thể trốn trong đám lúa rẫy một cách an toàn.

Mỗi năm làm một mùa rẫy khoảng 6 tháng, bắt đầu chớm mưa đến mùa khô thì lúa chín. Nó tuân thủ đúng một chu kỳ của những cỏ cây ngắn ngày ở cao nguyên. Lúa chín đúng vào mùa khô, thân lá, bông lúa, hạt lúa cứ thế phơi ra trong trời đất, cho đến khi khén thì mang gùi tuốt về kho (ngoại trừ những gốc lúa tốt, được cắt nguyên bông về treo trong nhà rẫy làm giống cho vụ sau). Lúa rẫy cây cứng nên ít bị đổ rạp, dé lúa ít bị rụng rơi. Người Tây Nguyên xưa không gặt lúa, không tuốt lúa và phơi lúa ở sân.

Tầm 3-4 mùa, người trả lại đất cho rừng để đi mượn đám khác. Đất cũ sẽ lại mọc thành rừng mới. Đó là lối canh tác luân canh bỏ hóa tự nhiên rất phù hợp trên đất rừng nguyên sinh, dựa vào tài nguyên rừng mà tồn tại. Trồng lúa cách ấy ít phải làm cỏ, không phải bón phân. Thả hạt giống xong thì chờ ngày tuốt hạt. Năng suất lúa rẫy chỉ tầm 1,5 tấn/ha, tuy không cao nhưng chất lượng, hương vị thì rất tuyệt vời. Lúa rẫy Tây Nguyên xưa hạt tròn, nấu cơm mềm dẻo, thơm mà tơi, không dính tay, cơm nguội vẫn mềm ngon. Người Tây Nguyên thời trước khi không có bát đũa, cơm nấu xong cho ra rổ rá hoặc tấm lá cây lớn, để nguội nhón bằng tay mà ăn. Cơm gạo ấy không cần thức ăn cầu kỳ. Có thể chấm với muối cỏ thơm, muối é, muối kiến, rau xào, măng le, nấm rừng, cá nướng, thịt nướng… Và thế mà no, mà ngon, mà thú vị!

Người dân xã Krong (huyện Kbang) thu hoạch lúa Ba Rân. Ảnh: Trần Dung

Người dân xã Krong (huyện Kbang) thu hoạch lúa Ba Rân. Ảnh: Trần Dung

Sau ngày hòa bình thống nhất, cùng với công cuộc vận động làm lúa nước, việc giao thoa văn hóa đã khiến các giống lúa cổ ít được để ý, ngày càng mai một. Phần lớn các giống lúa rẫy đã được chuyển xuống trồng trên các chân ruộng nà, nhờ nước trời. Qua một thời gian bị lãng quên, đến nay, một số giống lúa cổ đã được chú trọng phục tráng. Trong đó, nhiều giống lúa cho gạo dẻo mềm săn, thơm ngọt.

Người Jrai có một số giống lúa đặc biệt ngon như Dai Gol, là giống lúa muộn, thời gian canh tác dài 6 tháng, thường trồng trên chân ruộng nà hoặc rẫy. Đây là giống lúa cho hạt gạo hơi dài có màu vàng ngà, cơm khô mà dẻo, thơm. Dai Gol thuộc giống lúa gạo ngon nhất trong các loại lúa cạn. Dai Quét là giống lúa cạn gạo dẻo, thơm ngon. Dai Jrao là giống lúa rẫy muộn, từ khi trồng đến thu hoạch dài 6 tháng, cơm dẻo, thơm ngon, ít dính. Giống lúa rẫy này thuộc loại đặc sản. Dai Luah, hạt giống gạo Dai Gol, cũng là giống lúa rẫy, cơm dẻo, ngon.

Các giống lúa thường, gồm có Dai Ký Nual, là giống lúa sớm, trồng 3 tháng, hạt gạo tròn màu trắng, cơm dẻo săn. Dai Tu là giống lúa muộn 6 tháng, có thể trồng được ở rẫy và ruộng nà. Dai Gro là giống sớm, trồng trong 3 tháng.

Ngoài ra, người Jrai còn có các giống nếp na ná nếp Lào, là loại gạo nếp nấu hoặc đồ xôi mềm thơm, nhưng săn hạt không dính tay, ăn ít ngầy ngán như nếp ruộng. Điển hình có Nhar Luah, là giống lúa nếp thơm ngon nhất, khô mà dẻo. Nếp này có thể trồng ở rẫy và ruộng nà. Nhar Gol (hạt tương tự lúa Dai Gol), là giống nếp ít dẻo, ít thơm. Giống nếp này chủ yếu trồng ở rẫy, sau này được trồng ở các chân ruộng nà. Còn người Bahnar có một số giống lúa ngon như Ba Chăm, Krol…

Ở một số vùng Đông Trường Sơn, ngày trước có trồng giống lúa bọc thép, hạt tròn to, màu đỏ, nấu cơm rất cứng. Có lẽ đó là giống lúa nguyên thủy nhất ở Gia Lai.

Ngày nay, nhu cầu bữa ăn ngày càng trở nên tinh tế, người ta bắt đầu chú trọng đến những loại gạo ngon, chất lượng. Với xu hướng đó, nhiều giống lúa cổ của Gia Lai có cơm thơm dẻo lại rời đang được tìm đến. Những giống lúa quý đã được nhiều nhà sản xuất sưu tầm nhân giống sản xuất hàng hóa. Nhiều loại gạo đã xây dựng được thương hiệu, làm thành sản phẩm OCOP, cho giá trị thương mại và chất lượng tiêu dùng cao. Điển hình như gạo Ba Chăm (xã Đak Trôi, huyện Mang Yang), gạo Krol (xã Hà Bầu, huyện Đak Đoa), gạo lứt Gol (xã Ia Kla, huyện Đức Cơ), gạo Kê (xã Ia Hrú, huyện Chư Pưh)…

Những loại giống lúa cổ có chất lượng tốt đã đến lúc rất cần được sưu tầm, gìn giữ, phục tráng bảo tồn gen quý và đưa vào sản xuất với những thương hiệu đặc sắc, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đa dạng của thị trường. Một xu hướng đáng mừng cho các giống lúa cổ Gia Lai.

PHẠM ĐỨC LONG

Nguồn Gia Lai: http://baogialai.com.vn/channel/12400/202108/nhung-giong-lua-co-tren-dat-bazan-5746988/