Những phi vụ của điệp viên W. Stanley Moss
Ivan William Stanley Moss (15/6/1921 - 9/8/1965, còn có các tên gọi khác là W. Stanley Moss hoặc Billy Moss) là một sĩ quan quân đội Anh trong Thế chiến II, và sau này ông trở thành nhà văn, phát thanh viên, ký giả, và nhà du hành hết sức thành công. Ông Stanley Moss từng phục vụ trong Lực lượng cận vệ Coldstream và Ban điều hành các hoạt động đặc biệt (SOE).
Những năm tháng hoạt động tình báo tại SOE được ông chấp bút viết nên 2 cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Vụ bắt cóc tướng Kreipe”, (và cũng được chuyển thể thành một bộ phim Anh có cùng tiêu đề) và tác phẩm “Bóng tối chiến tranh”.
Thuở sơ khai
Stanley Moss sinh ra ở Yokohama (Nhật Bản). Mẹ ông, bà Natalie Galitch (sinh ra ở Nikolayevsk-on-Amur) là một kiều dân Nga da trắng di cư, còn người cha, ông William Stanley Moss là một thương buôn thép người Anh ở Nhật Bản. Mùa Thu 1939, Stanley Moss năm đó 18 tuổi, mới rời trường Charterhouse và đang sinh sống trong một nhà gỗ trên bờ biển Latvia. Vào lúc chiến tranh bùng nổ, cậu đã tới Stockholm và vượt Bắc Hải đến Anh thành công trên một chiếc thuyền buồm.
Sau khi hoàn tất khóa huấn luyện ở Caterham, ông được bổ nhiệm làm thiếu úy cho Đội cận vệ Coldstream vào tháng 7/1941. Anh phục vụ trong Đội ngự lâm quân nhà vua tại Cung điện St Jame’s. Sau những tổn thất ở Tobruk (Lybia), Stanley Moss được điều động vào Tiểu đoàn 3 của Coldstream và chiến đấu trong khoảng thời gian tháng 10/1942 tới tháng 7/1943 với Tập đoàn quân số 8 của Montgomery rượt đuổi Thống chế Đức, Erwin Rommel khắp Bắc Phi sau trận Alamein thứ nhất ở Ai Cập. Sau chiến dịch Corkscrew (cuộc xâm lược của quân Đồng Minh vào hòn đảo Pantelleria của Ý), tiểu đoàn của Stanley Moss được phái đến đồn trú ở Pantelleria. Stanley Moss quay lại Cairo, nơi đây ông đã gia nhập Lực lượng 133 của SOE vào ngày 24/9/1943.

Tướng Đức, Heinrich Kreipe (trái) và các du kích quân Hy Lạp cùng điệp viên SOE (Anh) tham gia vào vụ bắt giữ.
Hoạt động mật ở Tara (Cairo)
Năm 1943, tại Cairo (Ai Cập), Stanley Moss dọn tới sống trong một biệt thự rộng rãi với sàn khiêu vũ lớn có sàn lát gỗ, đủ cho 4-5 người ở. Buổi đầu, Stanley Moss tới sống một mình, sau đó mua chú cún con Pixie. Tiếp đó, Xan Fielding (người phục vụ ở Crete) chuyển đến sống cùng ông. Người kế đó là Bá tước Zofia (Sophie) Tarnowska (do quân Đức xâm lược mà buộc phải chuyển tới Ba Lan sống vào năm 1939); người thứ tư là Arnold Breene thuộc Bộ chỉ huy SOE; và người cuối cùng là sĩ quan Patrick Leigh Fermor của SOE (người có 9 tháng công tác ở Crete). Dân tình trong biệt thự gọi tòa nhà là Tara (lấy tên từ tòa nhà huyền thoại của các vị vua tối cao xứ Ireland). Bà Sophie Tarnowska và 2 người phụ nữ khác được yêu cầu ở chung nhà với các điệp viên SOE, nhưng chỉ có mình bà đồng ý sau khi những người đàn ông nài nỉ đừng làm họ thất vọng.
Bị người chồng ghẻ lạnh, Sophie Tarnowska chuyển tới sống cùng với số tài sản ít ỏi của mình (một bộ đồ tắm, một chiếc váy dạ hội, một bộ quân phục và 2 con cầy ma-gút làm thú cưng). Bà bảo vệ danh tiếng của mình khi sống trong ngôi nhà toàn đàn ông bằng cách phịa ra một nhân vật giám hộ hoàn toàn hư cấu được gọi là “Lệnh bà Khayatt có sức khỏe yếu ớt đến mức đáng buồn” và luôn tỏ vẻ cau có khi có khách đến thăm hỏi. Sau đó ngôi nhà lại tiếp nhận thêm các điệp viên SOE khác (họ là Billy McLean, David Smiley, và Rowland Winn). Tara trở thành trung tâm giải trí sôi nổi của các nhà ngoại giao, sĩ quan, văn sĩ, diễn giả, phóng viên chiến tranh, và cả những người ham tiệc tùng. Mùa Đông 1944, gia đình Tara phải rời khỏi tòa biệt thự đổ nát của họ và dọn sang một căn hộ khác.
Vụ bắt cóc tướng Kreipe ở Crete
Stanley Moss được biết đến nhiều nhất với Chiến dịch Bricklayer liên quan đến việc bắt sống tướng Heinrich Kreipe trên đảo Crete (Hy Lạp) và bắt cóc lão ta đến Ai Cập trong tháng 4 và tháng 5/1944. Hai điệp viên SOE là Leigh Fermor (bí danh Philiden) cùng với Stanley Moss (bí danh Dimitri) giữ vai trò phó chỉ huy đã chỉ huy một toán Andartes của Crete (một phần phong trào kháng chiến của Hy Lạp). Vào một buổi tối tại Hộp đêm Hoàng gia Peche (Câu lạc bộ câu cá và săn bắn Hoàng gia), Stanley Moss và Leigh Fermor cùng nghĩ đến việc bắt giữ Kreipe và kế hoạch đó được nung nấu trong suốt mùa Đông 1943. Ngay buổi tối trước khi Stanley Moss và Leigh Fernor lên đường thực hiện nhiệm vụ, David Smiley đã trao tặng cho Moss một cuốn sách mang tựa đề “Sách thơ Anh Oxford - người bạn đồng hành từ Albania - như một cách cầu may.
Được thăng quân hàm Đại úy ở tuổi 22, Stanley Moss cùng với đồng đội Leigh Fermor (khi đó 29 tuổi) đến đảo Crete năm 1944. Leigh Fermor hạ cánh bằng dù, còn Stanley Moss không làm được việc đó do mây che phủ. Mất vài tuần sau đó, ngày 4/4/1944, ông mới đi tàu xuôi về bờ biển phía Nam Crete để gặp Leigh Fermor, Andartes và những lực lượng hỗ trợ khác (họ dùng chung vỏ bọc bí danh “Dimitrios”). Đi lên phía Bắc, họ vượt Skinias. Kastamonitsa và Haraso. Phía Nam Skalani, họ chuẩn bị kế hoạch bắt cóc Kreipe. Bằng cách giả trang thành lính Đức, Stanley Moss và Leigh Fermor đã chặn xe chở Kreipe. Stanley Moss dùng dùi cui hạ gã tài xế, Kreipe cùng chiếc xe bị bắt giữ. Khi đó Leigh Fermor đóng giả Kreipe, còn Stanley Moss vào vai tay tài xế, Kreipe thật bị khống chế phía sau bởi nhóm du kích Crete. Stanley Moss lái xe suốt hơn tiếng rưỡi đồng hồ đi qua 22 chốt chặn đường tại Heraklion.
Sau đó Leigh Fermor tiếp tục lái xe, còn Stanley Moss và Kreipe đi bộ về phía Nam tiến vào vùng núi Anogeia và lên Pasiloritis. Sau khi hội ngộ, toàn đội bắt cóc đã đưa viên tướng lên đỉnh Psiloritis trước khi xuống núi tiến đến bờ biển. Bị quân Đức dồn về phía Tây cắt đứt đường rút lui về hướng Nam, họ đến Gerakari và sang Patsos, từ đây họ đi xuyên qua Forinos và Vilandredo trước khi tiến về phía Nam, cuối cùng lên tàu HMS Motor Launch ML 842 (được chỉ huy bởi Brian Coleman) vào ngày 14/5/1944 ngay trên bờ biển Peristeres, phía Tây Rodakino.
Các thư từ thời hậu chiến giải thích rằng tướng Kreipe bị binh lính của mình ghét bỏ vì ông từng phản đối việc dừng xe của chính mình nhằm kiểm tra việc tuân thủ các mệnh lệnh của ông, liên quan đến việc quân đội xem xét những lệnh di chuyển đã được phê duyệt. Sự căng thẳng giữa viên tướng và thuộc cấp mà phần nào đó đã giải thích cho sự miễn cưỡng của lính gác trong việc ngăn chặn chiếc xe chở Kreipe mà Stanley Moss lái khi đi qua Heraklion. Vụ bắt cóc đã được dựng đài tưởng niệm gần Archanes và tại Patsos.

Điệp viên William Stanley Moss ở Crete (Hy Lạp).
Vụ phá hoại Damasta
Quay về Crete vào ngày 6/7/1944, Stanley Moss dẫn đầu một nhóm kháng chiến gồm 8 người Crete và 7 tù binh chiến tranh Nga đào tẩu nhằm mở một cuộc phục kích mới vào lực lượng Đức, nhắm mục tiêu tấn công Anogeia ngay trên lộ chính kết nối Rethymno và Heraklion. Stanley Moss chọn vị trí phục kích bên một cây cầu tại Damastos, cách làng Damasta độ 1km về hướng Tây. Sau khi hủy diệt nhiều phương tiện chạy qua cầu, trong đó có một chiếc xe tải chở thư từ quân đội tới Chania (Hy Lạp), cuối cùng bọn Đức cũng nhắm mục tiêu vào Anogeia với một xe chở đầy lính kỵ binh được một xe bọc thép yểm trợ. Stanley Moss và các đồng đội đã tấn công địch. Ông hủy diệt xe bọc thép bằng cách bò sau nó và quẳng lựu đạn vào cửa sập. Tổng cộng có khoảng 40 hoặc 50 lính Đức và phe Trục đã bị giết cùng 1 lính du kích Nga. Ngày 18/8/1944, Stanley Moss rời Crete.
Trận đánh này được ghi lại trong cuốn sách của ông mang tựa đề “Chiến tranh du kích” và được tưởng niệm ở Damasta. Toàn bộ hoạt động của Stanley Moss ở Crete đã được ghi lại tại Bảo tàng lịch sử Crete. Stanley Moss hoạt động tại Hy Lạp từ giữa tháng 9 và 11/1944, trong thời gian ông được thăng hàm Thiếu tá vào ngày 24/10/1944. Ông tham gia một chiến dịch cùng với Thiếu tá Ken Scott nhắm mục tiêu phá hoại cây cầu đường sắt bắc qua sông Aliakmon, làm phân rã việc hành quân của lính Đức ra vào Thessaloniki. Do mưa lớn khiến nước sông tràn bờ, Stanley Moss không thể thực hiện khâu cuối phá hủy một đoạn cầu, song đã quay sang phá hoại nhằm cản trợ việc lui binh của địch. Ngày 30/1/1945, sau khi trở về Anh dù được giao nhiệm vụ cấp trung đoàn nhưng ông vẫn tái tham gia những chiến dịch đặc biệt. Cụ thể là bắt đầu từ ngày 6/3/1945, trong suốt 28 ngày rời Cairo, ông đã chọn thời gian này để cưới vợ.
Hoạt động mật ở Thái Lan
Vào ngày 25/6/1945 tại khách sạn Grand ở Calcutta (Ấn Độ), Stanley Moss được điều động tham gia Lực lượng 136 tại Thái Lan. Tham gia cùng Thiếu tá Ken Scott với tư cách là trưởng nhóm Jedburgh và Đại úy John Hibberdine (W/T) cho chiến dịch Sungod, Stanley Moss đã bay khỏi Jessore (Ấn Độ) vào ngày 22/8/1945 rồi hạ cánh bằng dù xuống một khu vực thả quân bên sông, phía Nam Bandon thuộc khu vực Bandon Nakon Sri Tamaraj (Thái Lan). Nhiệm vụ của nhóm bao gồm thiết lập liên lạc với trụ sở (trạm Gaberdine), liên lạc với Sư đoàn Độc lập số 6 của Thái Lan, xác định tất cả các trại tù chiến tranh, tìm kiếm những địa điểm cho các khu vực thả quân và hạ cánh thủy phi cơ, đồng thời chuẩn bị việc phá hủy đường hầm trên tuyến đường sắt nối từ Chong Khao và Ron Phibun, phía Đông đến Tunsong. Phái đoàn đã sắp xếp buổi lễ đầu hàng của Nhật Bản trong khu vực hoạt động của họ ngay trước khi Stanley Moss rời đi vào tháng 11/1945. Ông xuất ngũ vào ngày 21/9/1946.
Trong khoảng thời gian giữa năm 1952 và 1954, ngay sau chiến tranh, Stanley Moss đã tham gia với người bạn cũng là cựu điệp viên SOE tên là Andrzej Kowerski (bí danh Andrew Kennedy) nhằm điều tra bí ẩn về những ngày cuối cùng của nền Đệ Tam Đức Quốc xã (ĐQX). Trong 2 tháng 4 và 5/1945, số dự trữ tại Reichsbank (Ngân hàng Đế chế) gồm vàng (730 thỏi), tiền mặt (6 bao tải lớn), đá và kim loại quý như bạch kim (25 hộp niêm phong) được Walther Funk cử đi chôn cất trên núi Klausenhof ở Einsiedl, bang Bavaria, cũng là nơi tập trung lực lượng kháng cự cuối cùng của ĐQX. Tương tự, các dự trữ tiền mặt của Abwehr (Cơ quan tình báo ĐQX) được giấu gần Garmisch-Partenkirchen. Một thời gian ngắn sau khi các lực lượng Mỹ tràn vào nơi này thì dự trữ và tiền bạc đã không cánh mà bay.
Stanley Moss và Andrew Kennedy thường xuyên đi về Đức và Thụy Sỹ để trao đổi thư từ với những người đào tẩu ở Argentina nhằm điều tra chuyện gì đã xảy ra. Họ nói chuyện với nhiều nhân chứng trước khi cuối cùng đã xác định được số phận của kho báu. Stanley Moss và Andrew Kennedy phát hiện ra (cùng với kết luận mà họ đưa ra về những người chịu trách nhiệm cho những sự vụ mất tích) cho đến nay vẫn chưa bị tranh cãi. Sự mất tích của Thiếu tá Martin Borg (Thống đốc quân đội Mỹ tại Garmisch-Partenkirchen) tại thời điểm đó vẫn chưa được giải thích. Sau đó hai ông tiếp tục tìm hiểu hậu quả của mật lệnh ngày 28/10/1939 của Heinrich Himmler, xác nhận chương trình Lebensborn nhằm tăng sự thuần khiết của chủng tộc người Aryan da trắng. Hai ông đã nghiên cứu chuyện gì đã xảy ra với những đứa trẻ sinh ra sau lệnh này.
Nam Cực
Ngày 9/1/1958, Stanley Moss đến Christchurch (New Zealand) theo yêu cầu của lãnh chúa Tedder, tức Chủ tịch hội đồng quản trị thuộc Đoàn thám hiểm giải cứu hàng không 1958 ở London. Stanley Moss dẫn đầu đoàn thám hiểm người Anh đến Bắc Cực trong tháng 5/1958 nhằm phát triển một tổ chức cứu hộ cho các hãng hàng không thương mại bay đến vùng Cực. Đơn vị hỗ trợ hải quân Hoa Kỳ (USNSU) đóng tại New Zealand để thực hiện Chiến dịch băng sâu III đã yêu cầu đưa Stanley Moss đến Nam Cực vào ngày hôm sau nhằm thực hiện một cú nhảy dù trên Nam Cực. Moss lên kế hoạch nhảy dù từ độ cao 914m từ trên máy bay đang bay với tốc độ 200 dặm/ giờ, bởi không khí quá loãng khiến nó không thể bay chậm hơn.
Do dù liên tục bị hỏng trong các lần thả hàng tiếp tế xuống Nam Cực nên Stanley Moss quyết định mang 2 chiếc dù. Cuối cùng Stanley Moss đã bay vào ngày 24/1/1958 cùng với 3 hành khách khác trên chiếc Globemaster đến căn cứ Scott tại McMurdo Sound (Nam Cực) nhằm báo cáo về chuyến vượt Nam Cực đầu tiên của Đoàn thám hiểm xuyên Nam Cực Thịnh vượng chung trong 2 năm 1957-1958 do 2 nhà thám hiểm Vivian Fuchs và Edmund Hillary dẫn đầu. Đoàn thám hiểm đến căn cứ Scott vào ngày 2/3/1958, còn báo cáo của Stanley Moss được công bố trên Sunday Pictorial vào ngày sau đó. Stanley Moss rời Nam Cực vào giữa tháng 3/1958 quay về New Zealand trên tàu phá băng bọc thép của mình, USS Glacier.
Nguồn ANTG: https://antg.cand.com.vn/ho-so-mat/nhung-phi-vu-cua-diep-vien-w-stanley-moss-i779259/