Những vụ gian lận thi cử tày đình bị xử tội nặng nề trong sử Việt
Trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam, gian lận trong thi cử bị xử tội rất nặng, người vi phạm có thể bị bắt làm nô lệ, bỏ tù, đeo gông cho đến xử tử.
Khoa cử là một trong những hình thức cơ bản để tuyển dụng nhân tài, phục vụ đất nước ngày xưa. Ở nước ta, nền khoa cử ra đời tương đối sớm. Sau chiến thắng Bạch Đằng năm 938, các triều đại phong kiến Việt Nam như Ngô, Đinh, Tiền Lê bắt tay vào việc xây dựng và củng cố chính quyền. Đến thời Lý (1009-1225), bộ máy nhà nước phong kiến về căn bản đã được hoàn thiện. Để có thể tuyển dụng nhân tài phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, nhà Lý bắt đầu đặt những viên gạch đầu tiên để xây dựng nền giáo dục nước nhà.
Quy định thi cử nghiêm ngặt
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, năm 1070, vua Lý Nhân Tông cho thành lập Văn Miếu, một năm sau cho lập Quốc Tử Giám (trường học đầu tiên của quốc gia).
Tiếp đó, năm 1075, vua Lý Nhân Tông cho tổ chức kỳ thi tuyển chọn người tài đầu tiên, được gọi là Minh kinh bác học. Kể từ đây, nền khoa cử Việt Nam chính thức ra đời.
Sau thời Lý, các triều đại phong kiến tiếp tục hoàn thiện nền giáo dục nước nhà. Phần lớn triều đại đều có một số cải cách về nội dung giáo dục và thi cử để phù hợp hơn.
Tuy nhiên, điểm chung là dù bất cứ triều đại nào, việc giáo dục và thi cử dưới thời phong kiến vẫn luôn tồn tại những quy định hết sức ngặt nghèo, bắt buộc học sinh phải vượt qua.
Theo sách Đại Nam Hội điển sự lệ, triều Nguyễn quy định, thí sinh không được mang tài liệu vào trường thi, không được nói chuyện ồn ào, lộn xộn, phải đóng dấu “nhật trung” (dấu xác định bài thi được làm tại trường thi), cấm ngồi không đúng chỗ quy định, tự ý vứt bỏ hoặc sửa chữa bảng tên, cấm kê khai gian lận tên tuổi, cấm nộp bài trễ hạn. Nếu vi phạm, sĩ tử sẽ bị phạt rất nặng.
Ngoài ra, hình phạt đối với người vi phạm rất nghiêm khắc. Người bị phát hiện mang tài liệu vào phòng thi sẽ bị gông (cùm) một tháng, sau đó bị đánh 100 roi. Nói chuyện ồn ào, cả thí sinh lẫn các vị quan đốc học, giáo thụ và huấn đạo ở địa phương có thí sinh vi phạm đều bị truy tội.
Bài thi phải viết loại chữ chân phương, thiếu một nét, một chấm xem như mắc lỗi, phạm luật. Khi làm xong bài, cuối quyển thi phải ghi rõ số chữ đã xóa, bỏ sót, sửa chữa.
Ai không được đi thi?
Trước thời gian thi bốn tháng, những người muốn dự thi phải ghi danh tại địa phương để xem xét tư cách đạo đức, lý lịch. Những người đang chịu tang cha hoặc mẹ, đang chịu tang ông bà nội mà đương sự là người phải lo việc thờ phụng không được tham gia kỳ thi. Những người bất hiếu, không hòa thuận với anh em, tàn bạo… cũng không được thi.
Những người thân thuộc với kẻ phạm tội đã bị chém, giảo (thắt cổ), đi đày, sung quân (dù đã được tha về)... cũng không được thi.
Tội thân thuộc với giặc được chia làm bốn khoản quy định từ nặng đến nhẹ với mức độ khác nhau. Nếu giặc là chánh yếu phạm (những người mang chức tước cao nhất) không kể đã bị xét xử hay chưa, dù đã chết hay đã ra đầu thú được khoan dung, thì từ con cho đến cháu, chắt cùng những người chịu tang từ chín tháng trở lên đều không được dự thi.
Nếu là kẻ tòng phạm theo giặc nhưng không có chức tước, hoặc nhỏ thì con cháu không được đi thi. Nếu đã ra đầu thú, lập công được giảm án, cháu được đi thi. Nếu là kẻ tòng phạm nhưng bị giặc ức hiếp phải theo chẳng có chức tước gì thì con không được đi thi nhưng cháu trở xuống đều được đi thi.
Phụ nữ bị cấm không được dự thi. Chính vì lý do này nên xuyên suốt thời kỳ phong kiến, Việt Nam chỉ có duy nhất một tiến sĩ nữ là Nguyễn Thị Duệ. Bà đã cải trang thành nam giới và đi thi đỗ vào thời nhà Mạc.
1. Thánh Cao Bá Quát dùng cách gì để sửa bài cho thí sinh?
A. Dùng mực tàu
B. Dùng bút chì
C. Dùng muội đèn
C là đáp án đúng. Cao Bá Quát (1808 – 1855), tên tự là Chu Thần, hiệu là Cúc Đường, biệt hiệu là Mẫn Hiên. Ông là lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương (nay thuộc thị xã Sơn Tây, Hà Nội) và là một nhà thơ nổi danh ở giữa thế kỷ 19 trong văn học Việt Nam.Năm 1841 dưới thời vua Thiệu Trị, Cao Bá Quát được cử làm Sơ khảo trường thi Thừa Thiên. Trong lúc chấm thi, ông thấy một số bài văn hay nhưng phạm húy. Không muốn vì lỗi nhỏ mà đánh trượt người có tài, Cao Bá Quát cùng Phan Thời Nhạ ngầm lấy muội đèn làm mực chữa 24 bài.Trong 24 người có bài được chữa này, 5 thí sinh đỗ cử nhân. Đến khi tra bảng, các sĩ phu xôn xao. Khi bị Bộ Lễ và Viện Đô sát điều tra, Cao Bá Quát nhận tất cả, nói: “Tôi thấy các bài hay sính bút làm vậy chứ không ai gửi gắm, dặn dò gì cả”.Án được dâng lên vua, Cao Bá Quát và Phan Thời Nhạ bị tội tử hình. Chủ khảo Bùi Quỹ và giám khảo Phan Văn Nhã, Trương Hảo Hợp bị giáng chức.Châu bản triều Nguyễn viết sau đó, Cao Bá Quát được giảm án từ “trảm quyết” - chém ngay - thành án “giảo giam hậu” - giam lại, đợi thắt cổ sau. Cuối cùng, án Cao Bá Quát được đổi sang tống ngục. Năm 1843, ông được cho đi “dương trình hiệu lực”, nghĩa là được phép lập công chuộc tội.
2. Tiến sĩ Ngô Sách Tuấn bị xử tội chết vào khoa thi năm nào?
A. 1696
A là đáp án nào Tháng 10 năm Bính Tí niên hiệu Chính Hòa thứ XVII (năm 1696), triều đình tổ chức khoa thi hương trong cả nước. Ngô Sách Tuân - người Từ Sơn, Bắc Ninh từng đỗ Hội nguyên Tiến sĩ khoa Bính Thìn (1676) - được cử làm Phó chủ khảo trường thi.Trước khi vào Thanh Hóa coi thi, Ngô Sách Tuân đến chào tể tướng Lê Hy và biết được các con của ông tham dự kỳ thi này. Lê Hy nhờ Ngô Sách Tuân giúp đỡ con mình.Sử chép rằng: Đến kỳ đệ tứ phát hiện quyển văn của con tể tướng họ Lê không đúng cách, Ngô Sách Tuân bèn đưa riêng quyển thi đó cho khảo quan chấm lại cho đúng cách. Không hiểu sao Phan Tự Cường (người Đông Anh, Hà Nội đỗ tiến sĩ khoa Canh Tuất 1670) đang là Tham chính (chức quan giúp việc cho Tuyên chính người đứng đầu Thanh Hóa bấy giờ) biết chuyện, bèn phát giác. Triều đình đem việc tố cáo giao cho các quan luận tội. Khoa thi Hương năm ấy, sĩ tử bị đánh hỏng rất nhiều, gây dư luận xôn xao bất bình.Ngô Sách Tuân là bậc đại khoa, từng giữ nhiều chức vụ trong triều đình. Trước đó, khi trấn giữ vùng Lạng Sơn, ông đã lập công trong việc bắt được dư đảng nhà Mạc lẩn tránh ở nước ngoài.Dù có công to như vậy, Ngô Sách Tuân vẫn bị khép tội chết. Chánh chủ khảo Ngô Hải bị bãi chức. Các quan giám khảo, phúc khảo đều bị phạt, nhiều quan trường dính líu đều bị cách chức.
B. 1698
C. 1670
3. Thần Siêu- Nguyễn Văn Siêu người đã chỉnh trang công trình gì quanh hồ Hoàn Kiếm?
A. Xây Tháp Bút
B. Dựng cầu Thê húc
C. Cả 2 công trình trên
C là đáp án đúng. Nguyễn Văn Siêu (1799-1872) là nhà văn được người đời ca ngợi ngang với Cao Bá Quát “Thần Siêu, Thánh Quát” quê ở làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì (nay thuộc phường Đại Kim quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội).Nổi tiếng thông minh từ nhỏ, lớn lên, ông theo học với Tiến sĩ Phạm Quý Thích, và kết bạn văn chương với Cao Bá Quát, mặc dù nhà thơ này kém ông 10 tuổi. Năm 26 tuổi, ông thi Hương đỗ Á nguyên (cử nhân thứ hai), nhưng hơn 10 năm sau mới đỗ Phó bảng khoa Mậu Tuất (1838) dưới triều vua Minh Mạng.Vì dính líu tới vụ gian lận thi cử cùng Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu bị tội phạt trượng (đánh bằng gậy) và tội đồ (đi đày).Năm 1865, Nguyễn Văn Siêu đứng ra tu bổ đền Ngọc Sơn, Hà Nội. Trên núi Ngọc Bội ông cho xây tháp đá, đỉnh tháp hình ngọn bút lông dựng ngược, thân tháp có khắc ba chữ Tả Thanh Thiên (viết lên trời xanh), ngày nay thường gọi đó là Tháp Bút. Ngoài ra, chính ông là người cho xây cầu Thê Húc để nối bờ với đền Ngọc Sơn.
4. Con trai nhà ‘bác học’ Lê Quý Đôn bị xử tội dưới thời vua nào?
A. Lê Thánh Tông
B. Lê Hiển Tông
B là đáp án đúng. Năm 1775, trong kỳ đệ tứ khoa thi Hội dưới thời vua Lê Hiển Tông, con trai nhà bác học nổi tiếng Lê Quý Đôn là Lê Quý Kiệt, đã đổi quyển thi cho một thí sinh khác tên Đinh Thì Trung. Sự việc bị phát giác,Thì Trung bị đày ra Yên Quảng, Quý Kiệt bị tước bỏ học vị cho về làm thứ dân, rồi bắt giam vào ngục cửa Đông.Lê Quý Đôn (1726-1784) là quan thời Lê Trung hưng, được mệnh danh là nhà bác học lớn của Việt Nam trong thời phong kiến. Ông có những cống hiến trong nhiều lĩnh vực khoa học: Triết học, luật học, sử học, nông học, dân tộc học, xã hội học, thiên văn học, từ điển học… Lê Quý Đôn sinh ra trong gia đình khoa bảng, cha là tiến sĩ Lê Trọng Thứ, quê ở làng Diên Hà, trấn Sơn Nam, nay là thôn Phú Hiếu, xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Mẹ ông là con gái một vị tiến sĩ, làm quan đến tước Hoàng Phái Hầu.Từ nhỏ Lê Quý Đôn ham học, thông minh, có trí nhớ tốt, được người đương thời coi là "thần đồng". 5 tuổi, ông đọc được nhiều bài trong Kinh thi. 12 tuổi, Lê Quý Đôn đã học khắp kinh, truyện, các sử, sách của bách gia chư tử.14 tuổi, Lê Quý Đôn theo cha lên học ở kinh thành Thăng Long. Lúc ấy, cậu bé quê Thái Bình đã thông thuộc toàn bộ sách kinh, sử của Nho gia. 17 tuổi, Lê Quý Đôn thi Hương đỗ Giải nguyên. 27 tuổi ông đỗ Hội nguyên, rồi đỗ Đình Nguyên Bảng nhãn.Lê Quý Đôn là tác giả của nhiều tác phẩm khảo cứu về lịch sử, địa chí, văn hóa Việt Nam. Về lịch sử - địa lý, ông có các tác phẩm: Đại Việt thông sử với 30 quyển ghi chép về hơn 100 năm của triều nhà Lê, bắt đầu từ Lê Thái Tổ đến Lê Cung Hoàng. Phủ biên tạp lục (6 quyển), viết xong năm 1776, ghi chép về tình hình xã hội Đàng Trong từ thế kỷ thứ 18 trở về trước.Cuốn Vân đài loại ngữ (9 quyển) được Lê Quý Đôn hoàn thành vào năm 1773, được coi là "bách khoa thư" đồ sộ nhất thời phong kiến Việt Nam.
C. Lê Thuần Tông
5. Khoa thi Hương đời Lê Gia Tông, những viên quan nào bị bắt làm nô lệ vì liên quan đến gian lận thi?
A. Vũ Cầu Hối và Ngô Sách Dụ
A là đáp án đúng. Năm 1673, đời Lê Gia Tông, tại khoa thi Hương, Tham chính Thanh Hóa Vũ Cầu Hối nhận tiền bạc, gửi gắm học trò làm kỳ đệ tử. Phủ doãn phủ Phụng Thiên Ngô Sách Dụ làm việc trong trường thi ngầm mang sách vở vào trường, sai gia nhân làm quyển thi đưa lẫn vào chấm lấy đỗ, xoay tiền của. Việc bị phát giác, cả hai đều bị xử đến tội đồ (bắt làm nô lệ).*Lê Gia Tông (1672-1675) tên húy là Duy Hợi con thứ của Lê Thần Tông, em của Lê Chân Tông và Lê Huyền Tông, được lập làm vua lúc mới 11 tuổi. Vua tướng mạo anh tú, tính tình khoan hòa, có đức độ làm vua, tiếc rằng ở ngôi được 3 năm, chết mới 15 tuổi, chưa có con nối dõi.
B. Vũ Cầu Hối và Ngô Thời Chí
C. Vũ Cầu Hối và Ngô Thời Nhậm
6. Tiến sĩ Ngô Thế Vinh người bị cách chức tước học vị vì vi phạm trường quy- Quê ông ở đâu?
A. Thái Bình
B. Nam Định
B là đáp án đúng. Ngô Thế Vinh hiệu Trúc Đường, Khúc Giang và Dương Đình (1802 - 1856) quê xã Bái Dương, huyện Nam Chân, nay là huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Trong kỳ thi Hương năm Minh Mạng thứ 15 (1834), tiến sĩ Ngô Thế Vinh được triều đình điều về trường thi Hà Nội làm giám khảo. Do vi phạm trường quy nên ông bị cách chức, tước học vị phải về nhà dạy học. Đến đời vua Tự Đức, năm Tự Đức thứ 9 (1856), nhờ Tổng đốc Định An là Nguyễn Đình Tân dâng sớ cho phục chức hàm cho những người có tài năng từng bị cách chức, Ngô Thế Vinh mới được khôi phục học vị tiến sĩ. Ngô Thế Vinh rất quan tâm đến giáo dục, văn hóa địa phương. Ông soạn văn bia cho nhiều di tích lịch sử như viết lời kí khi xây dựng đền thờ Đào Sư Tích (nay thuộc Thị trấn Cổ lễ huyện Trực Ninh tỉnh Nam Định), đền thờ Trạng nguyên Vũ Tuấn Chiêu (nay thuộc làng Xuân Lôi xã Nam Hùng huyện nam Trực tỉnh Nam Định), soạn văn tế cho đền Tống Thái hậu (thuộc xã Hải Trung huyện Hải Hậu tỉnh Nam Định), soạn câu đối, lời tán cho Văn chỉ huyện ở Cổ NôngTrong số học trò của ông có không ít người đỗ Tiến sĩ, Phó bảng, Cử nhân, như Phạm Thanh (người Thanh Hóa, Bảng nhãn khoa thi Tân Hợi – 1851), Ngụy Khắc Đản (người Nghệ An, Thám hoa khoa thi Bính Dần – 1856), Nguyễn Thế Trị (người Quảng Trị, Tiến sĩ khoa thi Ất Mùi – 1835).
C. Hải Dương
7. Năm 1826, ai lén lút đem tài liệu vào phòng thi và bị phạt đóng gông 1 tháng, tước bằng cử nhân?
A. Đặng Văn Thái
B. Đăng Văn Long
C. Đặng Tế Mỹ
C là đáp án đúng. Năm Minh Mạng thứ 6 (1826), Đặng Tế Mỹ bị phát giác mang tài liệu vào trường thi, nhân việc này, bộ Lễ xin tăng mức phạt cao hơn nữa. Tế Mỹ là người đầu tiên bị hình phạt đóng gông trong 1 tháng, sau đó bị đánh bằng trượng rồi mới được tha. Ngoài ra, Mỹ cũng bị tước bằng cử nhân. Chi tiết này cho thấy, nhà Nguyễn rất nghiêm minh xử lý gian lận trong thi cử.* Minh Mạng tên húy là Nguyễn Phúc Đảm, sinh ngày 23 tháng 4 nǎm Tân Hợi (25/5/1791), là con thứ 4 của Gia Long. Tháng giêng nǎm Canh Thìn (1820), thái tử Đảm lên ngôi vua, niên hiệu là Minh Mạng. Minh Mạng có tư chất thông minh, hiếu học, nǎng động và quyết đoán. Minh Mạng đặt ra lệ: các quan ở Thành, Dinh, Trấn - vǎn từ Hiệp trấn, Cai bạ, Ký lục, Tham hiệp; võ từ Thống quản cơ đến Phó vệ úy... ai được thǎng điện, bổ nhiệm... đều phải đến kinh đô gặp vua, để vua hỏi han công việc, kiểm tra nǎng lực và khuyên bảo. Là người tinh thâm nho học, sùng đạo Khổng Mạnh, Minh Mạng rất quan tâm đến học hành, khoa cử, tuyển chọn nhân tài. Nǎm 1821 cho dựng Quốc Tử Giám, đặt chức Tế Tửu và Tư Nghiệp, mở lại thi Hội và thi Đình, trước 6 nǎm một khoa thi, nay rút xuống 3 nǎm. Minh Mạng cũng rất quan tâm đến võ bị, nhất là thủy quân, nên đã sai người tìm hiểu cách đóng tàu của Châu Âu và ước vọng làm sao cho người Việt ta đóng được tàu kiểu Tây Âu và biết lái tàu vượt đại dương. Minh mạng đã cho hoàn chỉnh lại hệ thống đê điều ở Bắc Bộ, đặt quan khuyến nông, khai hoang ven biển Bắc Bộ lập thêm hai huyện Kim Sơn và Tiền Hải. Về đối ngoại, Minh Mạng đặc biệt chú ý thần phục nhà Thanh, nhưng lại lạnh nhạt và nghi kỵ các nước phương Tây, do vậy đã kìm hãm quan hệ thông thương của đất nước. Minh Mạng có rất nhiều vợ nên đã có 78 hoàng tử và 64 công chúa, tổng cộng 142 người con. Tháng 12 nǎm 1840, Minh Mạng ốm nặng rồi mất vào ngày 20/1/1841, trị vì được 20 nǎm, thọ 51 tuổi.
8. Năm 1834, ai đã đút lót tiền bạc cho quan trường để gian lận thi?
A. Nguyễn Văn Giao
B. Nguyễn Thái Để
C. Cả hai ông trên
C là đáp án đúng. Ngay cả thí sinh, nếu thông đồng với quan trường để đổi quyển thi cũng bị phạt nặng. Khoa thi Hương năm 1834, hai ông Nguyễn Văn Giao, Nguyễn Thái Để sau khi lo lót được quan trường “bật đèn xanh” cho thay quyển thi cũ đã bị đánh hỏng. Sự việc vỡ lở, cả hai bị tước học vị cử nhân. Năm 1841, vua Thiệu Trị lên ngôi mở ân khoa, thế nhưng họ vẫn không được thi. Mãi gần mười năm sau, họ mới được thi lại và đỗ đến tiến sĩ, thám hoa.
Số câu trả lời đúng