Niệm Phật Tam muội

Lời sách tấn tại trường hạ chùa Vạn Đức, Thủ Đức ngày 25-7-2020

GN - Tu hành, nói đến niệm Phật, chúng ta thường nghĩ là niệm Phật A Di Đà, nhưng thực sự niệm Phật là nghĩ tới hạnh nguyện của tất cả các Đức Phật, vì tất cả các Đức Phật đều có hạnh nguyện cao tột viên mãn, cho nên chúng ta theo nguyện nào, hạnh nào của Đức Phật cũng đều tốt.

Còn cánh cửa tâm mình đóng kín, tức không khởi niệm ác có thể đọa vào ba đường ác thì chúng sanh của ba đường ác sẽ không tới với mình nữa...

Khi nguyện của mình đồng với Phật là đồng hạnh với Phật và mình có nguyện giống Phật thì dù không nói ra tiếng, nhưng ý muốn của mình giống Phật cũng là niệm.

Vì vậy, tôi niệm hồng danh của Đức Phật A Di Đà là tôi nghĩ đến Đức Phật A Di Đà. Nghĩ đến Đức Phật A Di Đà, đầu tiên ta nghĩ đến thế giới Cực lạc, nghĩ tới 48 lời nguyện của Ngài.

Lời nguyện mở đầu của Đức Phật A Di Đà là thế giới của Ngài không có tên ba đường ác, không có người nghĩ đến ba đường ác. Vì thế giới Cực lạc của Đức Phật A Di Đà do công đức tu hành của Ngài mà thành, do tâm thanh tịnh của Ngài mà có, được kinh diễn tả là thành tựu như thị công đức trang nghiêm, không phải do dày công xây dựng như chúng ta xây chùa.

Do công đức thành tựu hoàn toàn khác với việc làm của thế gian. Thế gian thì mọi việc đều do tính toán, khôn ngoan, hơn thiệt để thành, nhưng thành như vậy không phải là đạo mà rất nguy hiểm. Thực tế cho thấy có thầy dùng khôn ngoan của mình để xây dựng chùa, nhưng xây chưa xong thì chết, hay có thầy giỏi lắm thì xây xong cũng chết.

Nhưng nếu ta tu pháp môn Tịnh độ của Phật A Di Đà là do công đức trang nghiêm thành tựu, do tâm buông bỏ hết tất cả mà được, không phải do khôn ngoan tính toán.

Hòa thượng Vạn Đức khi về đây khai sơn ngôi chùa này, tôi còn nhớ miếng đất này của bà Hộ cúng. Do công đức tu của Hòa thượng ở chùa Mai Sơn, người ta mới cảm đức của ngài, thỉnh ngài về đây dâng cúng ngôi nhà cho ngài về ở tu.

Chúng ta còn nhớ xưa kia vua Tần Bà Sa La cảm đức của Đức Phật Thích Ca, nên nhà vua đã dâng thượng uyển cúng Phật, không phải Đức Phật tạo mãi. Hoặc trưởng giả Cấp Cô Độc lấy vàng đổi đất của Kỳ Đà thái tử để xây dựng Kỳ Viên tịnh xá cúng Phật, vì ông đã cảm đức của Phật Thích Ca.

Các thầy ở chùa Vạn Đức phải nghĩ đến “Đức” là quan trọng. Đức do đâu mà có. Do giữ giới mà thành đức, do mình tu hành mà thành đức. Không giữ giới, không tu hành không thành đức không cảm hóa được người. Còn dùng khôn ngoan thu hút người là tai họa cho ta.

Riêng tôi rất sợ quần chúng tới với tôi, vì khi họ tới không phải cảm đức của mình thì rất đáng sợ bởi vô số việc rắc rối sẽ xảy ra. Tu hành phải thấy điều này.

Và khi mình xây chùa rồi, các thầy nghĩ thêm rằng phải có Tăng, nhưng phải được thanh tịnh Tăng, đồng hạnh đồng nguyện Tăng sống chung với nhau theo pháp Lục hòa mới tốt, vì được an lạc và giúp đỡ nhau từng bước tiến tu.

Trái lại, chỉ có tạp tăng rất sợ, tức mỗi thầy có ý riêng, có việc làm riêng mà sống chung một chùa rất nguy hiểm. Thật vậy, tất cả những người trong chùa cùng một ý với nhau xây dựng Phật pháp thì nhất định thành tựu.

Thời tôi còn là học tăng ở Phật học đường Nam Việt, nếp sống ở đây rất tốt, tuy không đông nhưng huynh đệ sống hài hòa với nhau. Mặc dù đời sống vật chất hẩm hiu, nhưng mọi người cùng chung tay với nhau làm được việc khiến quần chúng kính nể.

Nhưng khi được quần chúng kính nể rồi, chùa cao Phật lớn mọc lên thì bấy giờ lại nảy sanh quyền lợi. Lúc tôi mới ở đây, tôi còn phải lượm đồ tang mà người vứt bỏ và nhuộm vỏ măng cụt để mặc, nhưng về sau, người cúng nhiều, các thầy lo hưởng thụ thì đạo lực người tu kém lần, đạo đức mất, tuy hình thức tu còn, nhưng bị người ta chê bai, không khen ngợi giống như trước kia.

Ngày nay, các thầy còn phải cẩn trọng hơn nữa, vì có mạng xã hội. Mình ngồi đây, họ lén quay phim đưa lên mạng. Các thầy cần giữ oai nghi tế hạnh hơn nữa, vì mình vô tình nhưng người ác cố ý bươi móc. Vì vậy, Hội đồng Chứng minh quyết định thành lập Hội đồng Giám luật để tìm cách hạn chế tối đa vấn đề vi phạm luật pháp trong hàng Tăng-già.

Ở thế giới Cực lạc của Đức Phật A Di Đà, tên ba đường ác không có, ý nghĩ về ba đường ác cũng không có. Ý này rất quan trọng.

Từ đó, học với Hòa thượng Vạn Đức là đóng cánh cửa tâm lại. Pháp này rất hay mà các thầy chuyên tu sẽ thấy rõ. Mở tâm ra thì bao la, khi bằng tình thương của mình tới với các loài chúng sanh thì các loài chúng sanh sẽ cảm đức của mình mà tìm đến mình.

Hòa thượng Vạn Đức nói câu này mới nghe thấy lạ nhưng suy nghĩ lại thấy đặc biệt. Hòa thượng nói khi ngài niệm Phật, mở mắt nhìn thấy con muỗi đậu trên cánh tay ngài. Ngài nghĩ không có gì tặng cho chúng sanh. Nó chỉ cần một giọt máu, chẳng lẽ mình không cho được. Cho nên ngài để yên cho nó hút no.

Hòa thượng nói việc này với tôi bằng chân tình vì ngài nghĩ tôi hiểu được ý của ngài. Bình thường, có con muỗi đốt, người ta sẽ đập chết nó hoặc là xua tay đuổi nó. Nhưng Hòa thượng khởi tâm thương mà bố thí cho giọt máu. Từ chỗ đó, lòng từ mình mở ra được, đến với chúng sanh, các loài cảm lòng từ của mình mà tự tới.

Vì vậy, các thầy nào giữ được tâm thanh tịnh, nhất là nhập được Từ bi quán, hay cao hơn là Từ tâm Tam muội, tức định và từ định khởi lên tình thương nghĩ đến chúng sanh là tình thương chân thật từ chân tâm khởi, thì chúng sanh cảm lòng từ của mình nó tới. Nó thương mình mà tới nên không bao giờ làm phiền mình.

Còn cánh cửa tâm mình đóng kín, tức không khởi niệm ác có thể đọa vào ba đường ác thì chúng sanh của ba đường ác sẽ không tới với mình nữa. Đó là sự kỳ diệu mà tôi áp dụng được trong cuộc sống.

Đức Phật A Di Đà phát xuất từ niệm Phật Tam muội là từ chỗ này. Thật vậy, khi Đức Phật A Di Đà mở tâm ra khắp Pháp giới thì các vị Bồ-tát đồng hạnh đồng nguyện với Ngài đều kéo tới. Và khi có người tu thanh tịnh giải thoát tới, người thương chúng sanh tới, thì không có luật lệ, nhưng mọi việc ở Cực lạc đều hoàn hảo.

Trên bước đường tu, thế giới của chúng ta hay Pháp giới chúng ta thâm nhập là thế giới nội tâm thì thế giới đó, các thầy muốn ai vô họ vô được, muốn tống ra, họ phải ra, không ở được. Còn tâm mình ham muốn thì các loại ma ham muốn tương ưng sẽ vô được hoặc tâm mình bực tức sẽ chiêu cảm các loại ma bực tức thâm nhập được. Nhưng nếu các thầy không còn ham muốn, không còn bực tức thì các loại ma này phải đi ra, nó không có cửa vô tâm mình. Đừng để nó vô tâm mình.

Cửa tâm rất quan trọng. Cho vô cửa tâm này là mình nghĩ tới Phật, nghĩ tới trí giác của Phật thì chỉ Phật vô được, ác ma tự đi, mình không cần thưa kiện, chống phá, nó tự mất.

Tôi thực tập pháp này, có nguyện rằng những người nào có duyên tu với tôi, xin Phật cho họ tới, tôi sẵn sàng tiếp độ. Những người không có duyên tu với tôi, nhờ Kim Cang Mật Tích đuổi đi là có ông gác cổng ngay tại tâm mình. Nói cách khác, tượng Kim Cang chỉ là vật tiêu biểu, vì thật ra cánh cửa tâm mình mở là tâm thanh tịnh rồi được tượng trưng bằng hai ông thần Kim Cang đứng ở đây canh khiến người ác không thâm nhập vào tâm mình được.

Trên bước đường tu, sợ nhất là tâm mình không thanh tịnh. Vì vậy, tất cả pháp môn tu mà Phật dạy cốt làm cho tâm chúng ta thanh tịnh.

Có nhiều pháp môn tu dành cho Tỳ-kheo nhưng chủ yếu là thực tập 37 Trợ đạo phẩm, trước nhất phải tu quán Tứ niệm xứ là việc quan trọng của Tỳ-kheo.

Nhưng về sau này, các pháp môn tu do các vị Tổ đưa ra. Thí dụ Tịnh Độ tông khởi đầu là ngài Huệ Viễn phát xuất từ Trung Quốc, Ngài là vị Tổ Tịnh Độ tông đầu tiên người Trung Quốc.

Nhưng pháp môn Tịnh độ mà chúng ta tu vẫn phát xuất từ Đức Phật Thích Ca qua đến Long Thọ Bồ-tát và đến Thế Thân Bồ-tát. Sang Trung Hoa, ngài Huệ Viễn ngộ được pháp môn Tịnh độ, nhưng từ đời Tấn đến đời Đường, người khai tông lập giáo là ngài Thiện Đạo mới có pháp môn Tịnh độ cho chúng ta tu.

Pháp môn Tịnh độ đi tắt, không sử dụng 37 Trợ đạo phẩm. Nhưng tôi sử dụng 37 Trợ đạo phẩm, Tứ niệm xứ trước, về sau tôi mới áp dụng niệm Phật A Di Đà. Niệm Phật A Di Đà để cố đạt được định của niệm Phật, hay gọi là niệm Phật Tam muội.

Niệm Phật Tam muội là đóng kín cửa lòng tôi, lòng tôi chỉ có Phật. Niệm Phật, đem Phật vào lòng để lòng mình sáng lên, để Phật và mình có sự tương giao, kinh Pháp hoa gọi là Phật hộ niệm cho ta giúp ta sáng lòng, thấy được chư Phật mười phương.

Vì vậy, chúng ta niệm Phật A Di Đà, nghĩ về Phật A Di Đà thì Phật A Di Đà phóng quang đến tâm ta khiến tâm ta sáng lên mới thấy được thế giới Cực lạc. Nhưng nếu niệm Phật Thích Ca, giữ được Phật Thích Ca trong lòng thì lòng chúng ta cũng sáng cũng thấy được thế giới Thật báo của Phật Thích Ca, tức thâm nhập được thế giới của Ngài.

Thể hiện lý này, ngài Trí Giả nói ngài tụng kinh Pháp hoa đang nghe Phật Thích Ca thuyết pháp. Sở đắc này chính là niệm Phật Tam muội, do niệm Phật làm tâm trở thành thanh tịnh, tâm trở thành sáng thì tạo nên thế giới quan hay là thế giới thanh tịnh của Phật.

Vì vậy, chúng ta sống ở thế giới Ta-bà nhưng giữ được tâm thanh tịnh sáng suốt cũng là sống ở thế giới Phật. Có thể hiểu rằng thế giới Ta-bà và thế giới Cực lạc cũng ví như bề trái và bề mặt của một bàn tay.

Khi phải tiếp cận người làm mình phiền lụy là ở Ta-bà thế giới. Nhưng người về rồi, một mình ở thiền thất, đóng kín cánh cửa Ta-bà lại và nhiếp tâm niệm Phật thì thế giới Phật mở ra, bấy giờ mình chỉ thấy Phật và Bồ-tát. Ai vào cánh cửa này được, tu hành nhất định gặt hái kết quả tốt đẹp thì sẽ làm được những việc bình thường không làm được.

Mong quý thầy suy nghĩ, thực tập pháp niệm Phật A Di Đà và đạt được niệm Phật Tam muội thể hiện được lý quan trọng nhất của Phật dạy. Cầu nguyện quý thầy được an lạc trong mùa An cư kiết hạ.

HT.Thích Trí Quảng

Nguồn Giác ngộ: https://giacngo.vn//phathoc/2020/09/06/3ac092/