Niềm vui của người mê viết

Tôi tự nhận mình chỉ là người mê viết. Tự do viết, tự do nghĩ, tự do cảm xúc. Viết để san sẻ với bạn bè những ký ức mà mình còn lưu giữ qua cuộc chiến tranh, viết để bộ não chậm lão hóa. Tôi viết còn vì bám víu ước mơ làm báo đã bị khép lại vào ngày 10/4/1975, tức trước 20 ngày khi cánh cổng Dinh Ðộc Lập bị quật đổ. Cái ngày trường báo chí R phải đóng cửa, vì cuộc tổng tấn công vào dinh lũy Sài Gòn đã đến rất gần, trong khi cả lớp học, học viên bọn tôi chưa được trang bị một chữ nào về báo chí.

Vốn là người mê báo từ những năm đầu thập niên 60 của thế kỷ trước, đến những năm công tác ở Văn phòng Tỉnh ủy, mỗi lần anh Nguyễn Văn Ðẩu (Sáu Kiên) từ Ban Tuyên huấn qua văn phòng lấy tin, tôi là người trực tiếp cung cấp tin tức cho anh Sáu, lại nảy ra cảm giác người làm báo sao mà phong thái, đẹp lạ vậy. Cho đến khi tiếp xúc được các anh nhà báo gạo cội như Nguyễn Phong Triều, Nguyễn Hải Tùng, Tam Nghị, sau đó là các anh Thanh Minh, Thanh Tùng và hai nhà báo nữ Ngọc Tám, Hồng Nhiên..., tôi càng ao ước được làm báo như các anh chị ấy, được đi đó đi đây, chứ không phải ở một nơi thường có quy củ “nội bất xuất, ngoại bất nhập”, quá khô cứng.

Rồi cánh cửa mơ ước được mở, khi là cán bộ Tỉnh đoàn, tôi được đi học lớp báo chí do Ban Tuyên huấn Khu mở ở Xẻo Cùi khoảng một tháng, với 3 thể tài: tin tức, tường thuật và phóng sự. Cùng học có anh Vũ Thanh, Hồng Kỳ, Nguyễn Minh Nối... Sau này các anh đều là nhà báo chuyên nghiệp, có chức vụ cao; còn tôi, nghề báo vẫn chưa tới, có lẽ còn thiếu một chút duyên. Vận may lần thứ hai lại đến, lúc là cán bộ Khu đoàn Tây Nam Bộ, tháng 7/1974, tôi được đi học lớp báo chí ở R, suốt một tháng theo đường du kích cùng với Võ Khắc Ðiệp, Hồ Việt Lai, từ Cơi Nhì - Khánh Bình Tây đến Lò Gò - Tây Ninh thì như phần đầu đã nói, nghề báo của tôi lại bỏ lỡ, nhưng cái bỏ lỡ không nuối tiếc, bởi thời khắc lịch sử của dân tộc đến càng sớm càng tốt, càng sớm càng đỡ máu xương của đồng chí, đồng bào. Chỉ là đôi khi nghĩ lại, tôi cũng chạnh lòng vì mình chẳng khác nào Ðường Tăng đi thỉnh kinh, vượt qua bao cung đường hiểm nguy, Sông Tiền, Sông Hậu, xa lạ trên đất Campuchia mà chẳng có chữ báo chí nào. Trong khi anh Phạm Văn Tri học khóa viết văn, Phan Anh Tuấn dự lớp báo chí trước đó đều thành tài, thành danh. Chắc là mình chỉ có nợ với báo chí chứ không nhận được duyên từ nó.

Bác Nguyễn Thái Thuận (Út Trấn, bìa trái) cùng bác Lê Minh Hiền (Bảy Hiền, giữa) và bác Ðỗ Văn Nghiệp (Sáu Sơn) cùng trao đổi về một ấn phẩm lịch sử. Ảnh: CHÍ CÔNG

Bác Nguyễn Thái Thuận (Út Trấn, bìa trái) cùng bác Lê Minh Hiền (Bảy Hiền, giữa) và bác Ðỗ Văn Nghiệp (Sáu Sơn) cùng trao đổi về một ấn phẩm lịch sử. Ảnh: CHÍ CÔNG

Nhưng, tôi đặc biệt nhấn mạnh từ “nhưng” này, nhờ lận lưng được ít bài vỡ lòng trước đó, nhờ đam mê với báo, chịu khó đọc sách, báo, lại có tài học lóm cách bố cục của một bài viết mà tôi đã đọc, sử dụng chi tiết sao cho hợp lý, vận dụng ngôn ngữ cho từng thể tài như thế nào..., thời gian gần đây tôi bắt đầu cộng tác lại với báo chí. Ngày đó, tôi theo toán xung kích của Trung ương Ðoàn Thanh niên Cách mạng miền Nam tiến về Sài Gòn chiều 30/4/1975. Hai mươi ngày nhích dần về phía ánh đèn Sài Gòn, có mặt ở Sài Gòn vào thời điểm lịch sử sang trang, tiếp xúc với sĩ quan, tề ngụy những ngày làm cán bộ quân quản ở phường Yên Ðỗ mà trước đó mấy ngày tôi và họ sẵn sàng choảng nhau kẻ sống người chết... Bài “Chiều Sài Gòn” gần đây đăng trên báo Cà Mau là bài tôi viết về thời khắc huy hoàng đó. Trước đó tôi đã có các bài: “Ngủ ở Sài Gòn”, “Ðêm Sài Gòn”, “Gặp ở Sài Gòn” và “ Nhật ký tiến về Sài Gòn”...

Mê viết, nên dù tuổi đã cao, tôi vẫn miệt mài viết, xuyên suốt là đề tài chiến tranh cách mạng, nhớ tới đâu viết tới đó. Mỗi bài viết hiện diện trên trang báo Cà Mau là tôi như được tiếp thêm năng lượng, thêm dưỡng chất cho niềm đam mê của mình, nhất là khi nhận phản hồi tích cực từ các nhân vật mà mình đã viết.

Ông Dương Thanh Toàn, 94 tuổi, nhân vật trong bài “Trong lòng đất Bắc” lâu lâu điện hỏi thăm, có khi còn rủ nhậu, dù mỗi người chỉ một cốc rượu thuốc. Ông Trần Công Bình trong bài “Ðại tá từ du kích”, khi tôi nhường tờ báo biếu cho ông, ông vô cùng xúc động. Ông nói, cả đời trận mạc không ai nói tới, bây giờ có bài báo, kèm cả chân dung, cả nhà không ai giấu được nỗi mừng. Chạy xuống xã, hỏi có tờ báo này không, xã trả lời không có; lên huyện họp cựu chiến binh, hỏi có tờ báo này không, huyện cũng trả lời không. Tôi phải lục lạo ở các cơ quan xin cho ông mấy tờ nữa.

Còn ông Lê Minh Hiền, khi thấy những lá thư tay mà ông cất giữ sáu mươi năm qua xuất hiện trong bài “Những lá thư còn lại”, ông mừng như được trở về với thời máu và hoa của mình. Cũng ở bài này, Ðại tá Mạc Phương Minh từ TP Hồ Chí Minh gọi điện cảm ơn vì đã nhắc về người mẹ của chị, người liệt sĩ đã gửi cho con lá thư cho đến hai mươi sáu lần giỗ mới nhận được.

Với sức mạnh lan tỏa của báo chí, đã có những con người được nhắc nhớ, về một thời gian khó mà cũng thật hào hùng của dân tộc. Thật là hạnh phúc với niềm vui đã được cộng hưởng.

Những tác phẩm của tác giả Nguyễn Thái Thuận đăng trên ấn phẩm Ðất Mũi của Báo Cà Mau. Ảnh: PBT

Những tác phẩm của tác giả Nguyễn Thái Thuận đăng trên ấn phẩm Ðất Mũi của Báo Cà Mau. Ảnh: PBT

Chẳng những tận hưởng niềm vui từng bài viết, tôi còn bạo miệng rủ các anh, chị nguyên là Thường vụ Tỉnh ủy, như anh Lê Khải Phong, Dương Việt Thắng, Lê Minh Hiền và chị Cao Kim Dân, vận động viết quyển sách “Ðầm Dơi đất và người” ra mắt sau đại dịch Covid-19. Và quyển “Trần Văn Thời - Quê hương nghĩa nặng tình sâu” gồm 75 bài sắp ra mắt nhân kỷ niệm 75 năm thành lập huyện Trần Văn Thời vào tháng 5 tới, có thể là ấn phẩm văn hóa cuối cùng khi cấp huyện không còn. Hơn 130 bài của nhiều tác giả trong hai quyển sách đó sẽ là một thông điệp cho thế hệ sau biết cha ông của họ đã sống, chết, chiến đấu, nghĩa tình và chân thật như thế đó, gần 1.000 trang sách của nhiều tác giả là vạn niềm vui. Hy vọng, ngàn mai sau, hai quyển sách ấy sẽ là tư liệu để thế hệ hôm nay thêm thương nhớ người xưa.

Niềm vui qua những bài báo còn có cả tình cảm của các cháu biên tập viên ở Báo Cà Mau, như Thùy Trâm, Chí Công, đã cổ vũ, động viên, kể cả định hướng nội dung cho tôi viết.

“Bác ơi, viết cho con ký ức trong những năm tháng chiến tranh”. “Bác ơi, viết cho con nhân kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”.

“Ký ức của Bác đã moi ra hết rồi, bây giờ chỉ còn 60 kí-lô xương, thịt thôi”. Tôi hay đùa với các bạn trẻ ấy kiểu vậy. Nói thế thôi, chớ vẫn ngồi vào bàn viết, cảm giác những tiếng gọi ấy, không chỉ từ tòa soạn, mà từ ký ức đâu đó vọng về. Bắt đầu định hình ý tứ, xong “Chiều Sài Gòn” rồi đến “Bến Dựa một lần về”. Bài được quý báo gật đầu, xài được, niềm vui như được nhân lên.

Bám sát đề tài chiến tranh cách mạng là niềm vui lớn của tôi, bởi máu xương, công sức nào cũng xứng đáng được nhắc nhớ. Ðã đến lúc tôi thấy mình luôn gấp gáp, như sắp hết thời gian. Mỗi bài viết về vùng đất, con người thuở ấy xem như sự tri ân, nhẹ lòng với món nợ mà mình chưa trả hết. Và niềm vui nào cũng sẽ tàn, ở tuổi hoàng hôn chỉ còn một vài vệt nắng, tôi xin trao lại niềm vui ấy cho các em, cháu đang viết và sẽ viết...

Nguyễn Thái Thuận

Nguồn Cà Mau: https://baocamau.vn/niem-vui-cua-nguoi-me-viet-a39694.html