NIM toàn ngành ngân hàng về mức thấp nhất kể từ cuối 2018, rủi ro định giá cổ phiếu

Lợi nhuận 'lõi' của các Ngân hàng đang chịu áp lực kép từ tăng trưởng tín dụng chậm lại và NIM hồi phục chậm hay thậm chí thu hẹp do chi phí vốn gia tăng..

Lợi nhuận ngành Ngân hàng quý 3/2025 tăng 24,9% so với cùng kỳ, đạt mức cao nhất trong 7 quý gần đây nhờ thu nhập ngoài lãi mạnh đáng chú ý tại VPB, CTG, SHB và chi phí dự phòng giảm ở CTG, STB, BVB, OCB, theo thống kê của FiinTrade.

Tuy nhiên, lợi nhuận đã chững lại so với đỉnh quý 2 khi giảm 1,6%. Động lực tăng trưởng suy yếu, khi tín dụng tăng 4,0% so với quý trước, giảm tốc đáng kể so với mức +6,3% của quý 2 và NIM tiếp tục thu hẹp do áp lực huy động tăng mà lãi suất cho vay chưa được điều chỉnh tương ứng. Tỷ lệ Huy động/Tín dụng đạt mức cao kỷ lục 111%.

Lợi nhuận “lõi” của các Ngân hàng đang chịu áp lực kép từ tăng trưởng tín dụng chậm lại và NIM hồi phục chậm hay thậm chí thu hẹp do chi phí vốn gia tăng.

Tăng trưởng tín dụng quý 3/2025 đạt +4% so với quý trước, giảm tốc so với +6,3% của quý trước, ghi nhận ở nhóm Thương mại Cổ phần nhà nước (BID, VCB, CTG) và các ngân hàng tư nhân lớn (TCB, MBB, VPB, HDB). Ngược lại, BVB và STB ghi nhận tăng trưởng tín dụng tích cực hơn trong quý 3.

NIM toàn ngành giảm trở lại về ~3,0%, thấp nhất kể từ cuối 2018, chủ yếu do tác động từ HDB với NIM giảm -1,2 điểm phần trăm so với cùng kỳ 2024 và so với quý 2/2025.

Trong khi đó, nhiều ngân hàng tư nhân tiếp tục hồi phục NIM, nổi bật ở STB, VPB, OCB, MBB, VIB nhờ duy trì tăng trưởng tín dụng và tỷ trọng cho vay bán lẻ cao; riêng STB được hỗ trợ thêm từ khoản thu nhập lãi ghi nhận lại từ các khoản tái cơ cấu liên quan đến Khu công nghiệp Phong Phú.

Ngược lại, nhóm ngân hàng nhà nước (VCB, BID, CTG) vẫn neo NIM ở vùng đáy 2,0%– 2,6% do phải ưu tiên duy trì mặt bằng lãi suất cho vay thấp dù chi phí huy động tăng nhanh.

Tỷ lệ NPL nội bảng của 27/27 giảm về 2,0% cuối quý 3/2025 từ mức 2,1% cuối quý 1. Đây là mức giảm tương đối chậm nhưng cũng là tín hiệu cho thấy chất lượng tài sản đang dần ổn định trở lại, tỷ lệ tạo mới nợ xấu tiếp tục ở mức rất thấp, dù chưa thực sự bền vững khi nhiều khoản nợ tái cơ cấu vẫn cần thời gian để được phản ánh hoàn toàn vào bảng cân đối.

Tỷ lệ nợ cần chú ý (SML) nhích nhẹ lên 1,4% từ mức 1,2% của quý liền trước, chủ yếu ghi nhận ở một số ngân hàng như CTG, HDB, STB, thay vì diễn ra trên diện rộng.

Đáng chú ý, tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLCR) đạt 84,3% trong quý 3/2025, hồi phục nhẹ từ mức đáy 79,8% ghi nhận trong quý 2/2025. Một số ngân hàng tăng trích lập dự phòng, dù tỷ lệ NPL giảm, bao gồm CTG, VPB, TCB, ACB, VIB, BVB.

Tuy nhiên, tỷ lệ tạo mới nợ xấu tiếp tục ở mức rất thấp quý thứ 2 liên tiếp. Một số ngân hàng như MBB, HDB, SHB và OCB có tỷ lệ tạo mới nợ xấu cao hơn so với trung bình ngành và tỷ lệ NPL nội bảng tăng trở lại trong quý 3, trong khi chi phí tín dụng lại giảm. Điều này phản ánh áp lực trích lập dự phòng vẫn tiềm ẩn và có thể gia tăng trong các quý tới.

Ngân hàng và Chứng khoán hiện có P/E và P/B dao động quanh mức trung bình 5 năm. Tuy nhiên, Ngân hàng đang trong giai đoạn lợi nhuận chững lại sau khi đạt đỉnh.

P/B ngành Ngân hàng hiện ở mức 1,6x, giảm -20% so với đỉnh 3 năm gần nhất (2,0x) ghi nhận giữa tháng 10/2025 và đang quay về vùng định giá quen thuộc mà ngành duy trì trong giai đoạn cuối 2023 – giữa 2025.

Cụ thể, các ngân hàng tư nhân top đầu (VPB, TCB, MBB) cùng nhóm quy mô nhỏ hơn (LPB, SHB, ABB) ghi nhận P/B tăng đáng kể từ đầu năm 2025, đóng góp chính vào mức tăng giá vượt trội của các cổ phiếu này. Ngược lại, nhóm TMCP nhà nước (BID, VCB, CTG) có định giá tăng thấp hay thậm chí suy giảm, khiến giá cổ phiếu kém tích cực hơn dù giá trị sổ sách vẫn tăng trưởng.

Tuy nhiên, triển vọng lợi nhuận ngắn hạn chưa thực sự khả quan đang làm gia tăng rủi ro điều chỉnh định giá, đặc biệt với những cổ phiếu đã tăng nóng gần đây.

Thu Minh

Nguồn VnEconomy: https://vneconomy.vn/nim-toan-nganh-ngan-hang-ve-muc-thap-nhat-ke-tu-cuoi-2018-rui-ro-dinh-gia-co-phieu.htm