Nợ công hạ xuống mức 34% GDP, cách xa trần quy định

Báo cáo nợ công quốc gia giai đoạn 2020–2024 của Bộ Tài chính cho thấy tỷ lệ nợ công của Việt Nam giảm gần một nửa, xuống 34% GDP vào năm 2024, cách xa trần quy định. Tuy nhiên, nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia so với kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ lại ghi nhận xu hướng tăng, đặt ra yêu cầu cần đẩy mạnh xuất khẩu...

Nợ công giảm gần một nửa sau 5 năm

Nợ công giảm gần một nửa sau 5 năm

Bộ Tài chính vừa ban hành Quyết định 2823/QĐ-BTC về việc công bố thông tin nợ công quốc gia giai đoạn 2020–2024.

Theo báo cáo, tỷ lệ nợ công so với tổng sản phẩm quốc dân (GDP) đã giảm mạnh trong 5 năm qua. Năm 2020, nợ công chiếm tới 55,9% GDP, sang đến năm 2024 tỷ lệ này chỉ còn 34%. Xét theo cơ cấu, nợ Chính phủ chiếm 31,8% GDP, giảm từ 49,9% GDP vào năm 2020, trong khi nợ được Chính phủ bảo lãnh hạ xuống 2,2% và nợ chính quyền địa phương duy trì ổn định ở mức thấp, khoảng 0,6% GDP.

Tỷ lệ nợ công so với tổng sản phẩm quốc dân (GDP) trong 5 năm qua. Nguồn: Bộ Tài chính

Tỷ lệ nợ công so với tổng sản phẩm quốc dân (GDP) trong 5 năm qua. Nguồn: Bộ Tài chính

Trong năm 2024, tỷ lệ nợ công/GDP đã giảm xuống còn 34%, trong đó nợ Chính phủ còn 31,8% GDP; nợ được Chính phủ bảo lãnh còn 2,2% và nợ chính quyền địa phương ở mức 0,6% GDP.

Báo cáo nợ công quốc gia giai đoạn 2020–2024 - Bộ Tài chính

Sự thay đổi này phản ánh xu hướng thắt chặt kỷ luật tài khóa, đồng thời cho thấy nỗ lực quản lý vay nợ hiệu quả của Nhà nước. Nợ công không chỉ giảm về tỷ lệ tương đối so với GDP mà còn thu hẹp đáng kể về tốc độ tăng, tạo nền tảng ổn định hơn cho cân đối ngân sách.

Một điểm sáng khác là nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP cũng ghi nhận sự chuyển biến tích cực. Nếu năm 2020, nợ nước ngoài của quốc gia tương đương 47,9% GDP thì đến năm 2024, con số này chỉ còn 27,9%. Diễn biến này cho thấy mức độ an toàn tài chính được cải thiện, giảm dần sự phụ thuộc vào nguồn vốn vay bên ngoài.

Song song với đó, gánh nặng trả nợ của Chính phủ so với quy mô thu ngân sách nhà nước tiếp tục điều chỉnh giảm từ 21,2% năm 2020 xuống 18,9% năm 2024. Nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ so với thu ngân sách nhà nước vốn là chỉ tiêu then chốt phản ánh sức ép trả nợ. Do đó, việc duy trì tỷ lệ thấp và xu hướng giảm được xem là yếu tố quan trọng để củng cố khả năng cân đối ngân sách.

Tuy nhiên, báo cáo cũng chỉ ra một điểm cần lưu ý đó là nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia so với kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ lại ghi nhận xu hướng tăng từ 5,7% năm 2020 lên 7,8% năm 2024. Mức tăng này dù chưa tạo áp lực lớn nhưng phản ánh thực tế Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu, giữ ổn định cán cân thương mại để bảo đảm dư địa trả nợ trong dài hạn.

Nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP trong 5 năm qua

Nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP trong 5 năm qua

Đối chiếu với các ngưỡng quy định trên, tình hình nợ công hiện nay cho thấy dư địa khá lớn. Theo đó, tỷ lệ nợ công 34% GDP cách khá xa so với trần và ngưỡng cảnh báo 55%, đồng nghĩa Việt Nam đang duy trì ở vị thế an toàn.

Trước đó, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 23/QH15 về Kế hoạch tài chính quốc gia và vay, trả nợ công giai đoạn 2021–2025, trong đó quy định các ngưỡng trần nợ công nhằm kiểm soát rủi ro. Theo đó, trần nợ công được ấn định tối đa 60% GDP, với ngưỡng cảnh báo là 55%. Đối với nợ của Chính phủ, mức trần không vượt 50% GDP (cảnh báo 45%), trong khi nợ nước ngoài của quốc gia cũng được kiểm soát ở mức tối đa 50% GDP, với ngưỡng cảnh báo tương ứng 45%.

Các chuyên gia đánh giá cao năng lực quản lý nợ hiệu quả, từ đó mở rộng hơn không gian tài khóa để Chính phủ chủ động huy động vốn cho đầu tư phát triển, cũng như ứng phó linh hoạt trước biến động tài chính trong nước và quốc tế.

Cùng với việc công bố các chỉ tiêu tổng quan, Bộ Tài chính còn cung cấp số liệu chi tiết về tình hình vay và trả nợ của Chính phủ, nợ nước ngoài theo từng chủ nợ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ chính quyền địa phương và nợ nước ngoài của quốc gia trong cả giai đoạn 2020–2024.

Nguồn VnEconomy: https://vneconomy.vn/no-cong-ha-xuong-muc-34-gdp-cach-xa-tran-quy-dinh.htm