Nỗ lực vũ khí hóa thương mại của chính phủ Trung Quốc
Chính phủ Trung Quốc thể hiện lập trường sẵn sàng sử dụng thương mại như một vũ khí chính trị đối dù họ phải dựa vào nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu trong nước.
Verisk Maplecroft, một công ty tư vấn rủi ro, nhận định Trung Quốc là nhà tiêu thụ lớn của các mặt hàng như dầu thô và quặng sắt, song Bắc Kinh chủ yếu dựa vào nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu trong nước, Nikkei Asian Review đưa tin.
Để đa dạng hóa nguồn nhập khẩu, Trung Quốc tìm cách mua cổ phần của các doanh nghiệp nước ngoài, làm tăng tỷ lệ tài nguyên do Trung Quốc sở hữu trong tổng nhập khẩu. Chẳng hạn, số lượng công ty kim loại cơ bản và vàng do Trung Quốc sở hữu ở châu Đại Dương đã tăng từ 0 hồi năm 2000 lên 59 công ty vào năm 2020.
Châu Đại Dương bao gồm Austrailia, Papua New Guinea, New Zealand, Fiji và nhiều quốc đảo. "Trung Quốc đang tìm cách tăng cường kiểm soát chuỗi cung ứng toàn cầu thông qua những khoản đầu tư ra nước ngoài và quan hệ đối tác với các công ty lớn trên thế giới", báo cáo viết.
Báo cáo của Verisk Maplecroft lưu ý rằng Trung Quốc tăng nhập khẩu các mặt hàng quan trọng như dầu thô, khí đốt tự nhiên, than luyện kim và quặng sắt của các đối tác thương mại.
"Bằng cách đảm bảo nguồn cung đa dạng, Trung Quốc sẽ có lợi thế trong việc vũ khí hóa thương mại đối với các đối thủ chính trị, đồng thời gia tăng sự phụ thuộc của những đối tác mới và hiện tại", Verisk Maplecroft khẳng định.
Năm ngoái, Australia là nhà cung cấp quặng sắt lớn nhất của Trung Quốc. Tuy nhiên, Australia - một đồng minh của Mỹ - gần đây đã chịu ảnh hưởng bởi các hạn chế thương mại của Bắc Kinh.
Dữ liệu của Refinitiv cho thấy Australia vận chuyển trung bình 60,86 triệu tấn quặng sắt đến Trung Quốc mỗi tháng vào năm 2020, chiếm hơn 60% tổng hàng hóa nhập khẩu của Trung Quốc.
Đây là lý do chính phủ Trung Quốc tăng cường quan hệ thương mại với các nhà sản xuất quặng sắt khác như Brazil và Guinea, theo báo cáo của Verisk Maplecroft. “Mặc dù có đường lối cứng rắn hơn với Bắc Kinh dưới thời Tổng thống Bolsonaro, Brazil vẫn là ưu tiên trong chiến lược đa dạng hóa của Trung Quốc", báo cáo viết.
Công ty nghiên cứu Capital Economics nhận định Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Australia về hàng hóa và dịch vụ, chiếm 39,4% xuất khẩu hàng hóa và 17,6% xuất khẩu dịch vụ từ năm 2019 đến năm 2020.
Báo cáo của Verisk Maplecroft chỉ ra rằng chính phủ Trung Quốc thể hiện lập trường sẵn sàng sử dụng thương mại như một vũ khí chính trị.
Báo cáo trích dẫn việc chính phủ Trung Quốc cấm nhập khẩu than của Australia. Quan hệ giữa hai nước trở nên xấu sau khi Australia ủng hộ lời kêu gọi điều tra quốc tế về cách Trung Quốc xử lý dịch COVID-19 bùng phát. Thành phố Vũ Hán (tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc) là nơi đợt bùng phát đầu tiên của đại dịch xuất hiện.
Than đá chỉ là một trong những mặt hàng xuất khẩu của Australia chịu ảnh hưởng bởi các biện pháp trả đũa của Trung Quốc, từ đòn thuế đến những lệnh cấm và hạn chế.
Hãng Verisk Maplecroft nhận định căng thẳng địa chính trị có thể leo thang khi Trung Quốc tăng tốc nỗ lực giảm sự phụ thuộc vào các nhà cung cấp tài nguyên “không thân thiện”.
"Cấm nhập khẩu than từ Australia là một ví dụ điển hình. Tuy nhiên, nhiều khả năng khác có thể theo sau với những tác động đáng kể đến thương mại hàng hóa và tình hình địa chính trị toàn cầu”, báo cáo viết.
"Những động thái ngoại giao của Bắc Kinh đang nhắm trực tiếp vào các doanh nghiệp và nhà đầu tư. Họ sẽ phải chuẩn bị phù hợp", Verisk Maplecroft cảnh báo.