Nơi lắng hồn núi sông ngàn năm
Từ Sân bay quốc tế Nội Bài, xe lướt êm trên đường cao tốc, đưa chúng tôi vượt qua những phố xá sầm uất, những ruộng nương mát mắt, vượt qua con sông Hồng lịch sử để về với trung tâm Thủ đô. Bạn đồng hành của tôi là một người về thăm quê từ khu kinh tế mới của người Hà Nội trên đất Lâm Đồng, chợt nói: 'Hồi nó mới hoàn thành, tôi về thấy con đường này thật lớn, vậy mà sau mấy năm bây giờ hình như đã hẹp lại'…
Tôi không mấy ngạc nhiên trước ý nghĩ của anh bạn đồng hành. Hình như ai trong chúng ta cũng giống nhau một trạng thái tâm lý: Khi ta còn bé, thấy con đường làng cũng không nhỏ lắm và đường lên chợ huyện thì thật là to. Lớn lên, đi xa trở về, con đường ngày xưa sao không còn giống như cảm nhận thời thơ ấu của mình. Thực ra thì con đường của tuổi thơ ta không bao giờ hẹp lại, đường cao tốc Thăng Long - Nội Bài cũng vậy, chỉ có người bạn đồng hành của tôi và Thủ đô đã “lớn” quá nhanh…
Đâu đó trong những cuốn sách ấu thơ, tôi đã nghe kể rằng: Một bác nông dân trên vùng rừng núi Pennine quanh năm băng giá của nước Anh chưa một lần được đến Thủ đô, nhưng bác ta có thể ngồi cả buổi tán chuyện về chuông đồng hồ Bigben trên tháp cung điện Westminter, hay tả về vẻ đẹp cổ kính của những lâu đài cổ ẩn hiện trong sương mù Luân Đôn với bà hàng xóm. Và kỳ lạ là bà ta biết rõ lão đồng hương chưa rời làng bao giờ, đang tán hươu tán vượn, nhưng vẫn há hốc mồm mà nghe quên cả bánh trên lò đang cháy khét lẹt. Chuyện cũng kể rằng: Có chàng ngư dân vùng Alpes-Maritimes miền Đông nam nước Pháp chưa hề biết Khải Hoàn Môn ở góc nào Paris, nhưng anh cùng những người bạn của mình đã vượt qua một cơn bão dữ trên biển Địa Trung Hải, với ý nghĩ “nếu trở về bình yên sẽ dành tiền đi Paris một chuyến cho bõ đời.” Thế mới biết, người dân của mỗi quốc gia đều có chung một niềm tự hào về “trái tim” quốc gia của mình, niềm tự hào ấy đôi khi không chỉ thuộc về họ mà thuộc về dân tộc và Tổ quốc. Tôi cũng tự hào về Thủ đô Hà Nội của tôi như bác nông dân vùng núi Anh quốc, như chàng ngư phủ miền Nam nước Pháp tự hào về thủ đô của họ. Cũng như họ, thuở nhỏ, đứa trẻ nhà quê lấm lem bùn đất như tôi trong giấc mơ cũng không tưởng tượng nổi dọc ngang Hà Nội. Thủ đô thấp thoáng qua giáo khoa lịch sử, địa lý và láng máng văn chương, chí ít là tiểu thuyết lịch sử “Bóng nước Hồ Gươm” của Chu Thiên hay truyện vừa “Một lần tới Thủ Đô” của Nguyễn Huy Tưởng. Thích nhất là hồi niên thiếu nghe Trần Đăng Khoa kể: “Hà Nội có tàu điện. Đi về cứ leng keng. Người xuống và người lên. Người nào trông cũng đẹp…”. Lớn lên, tôi cũng không có cái may mắn được làm công dân Thủ đô. Đoàn tàu Thống Nhất đã kéo tôi vào miền đất phương Nam và “cắm” ở đó đã hơn nửa đời người. Nhưng có lẽ tôi vẫn còn may mắn, dù năm thì mười họa nhưng vẫn có những lần đặt chân lên đường phố Hà Nội của tôi chứ không chỉ cả đời tưởng tượng về thủ đô Luân Đôn như bác nông dân trên dãy núi Pennine - Anh quốc, hay tận khi vượt qua cơn bão biển mới dám nghĩ tới như gã ngư phủ trẻ miền Nam nước Pháp…
* * *
Khi xe lướt tới bờ đê sông Hồng, tôi kịp nhận ra lá cờ đại phấp phới bay trên đỉnh đình Vẽ. Tâm thức xuất hiện những liên tưởng: Từ 1010 năm trước, Hoàng đế Lý Công Uẩn đã dẫn đoàn thuyền dời đô từ hành cung Hoa Lư về thành Đại La cập bến đoạn nào và rồng vàng đã bay lên từ đâu?! Để có một Hà Nội ngàn năm lắng hồn sông núi, bao triều đại, bao thế hệ đồng bào đã đắp bồi bằng sức lực và trí tuệ, bằng sông máu, núi xương?! Phải biết mấy gian truân thì những chàng trai chân đất khắp những làng quê Việt mới bước qua cổng đình làng để về Thăng Long quần hội và mấy ai được đề tên lên bia đá, bảng vàng?!...
Trên đường phố Hà Nội thời hiện đại mà tôi như nghe vang vọng giọng vua Lý Thái Tổ tuyên “Chiếu dời đô”: “Thành Đại La… ở vào nơi trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư đến mãi muôn đời…”. Cuộc sống bình ổn sau lũy đá giăng thành và cây ngàn trùng điệp Hoa Lư không ngăn được tầm nhìn đổi mới trong tư duy của vị vua mở đầu triều Lý. Ông đã nhận thức, muốn đưa đất nước phát triển thì chọn kinh đô là việc trọng đại, phải là nơi hội tụ của bốn phương thiên hạ. Trên đường phố Hà Nội, tôi cũng như đang thấy hiện lên giữa vùng linh khí, đại danh tướng Lý Thường Kiệt hùng tráng xướng lên những câu thơ “Thần” - Bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước Đại Việt: “Sông núi nước Nam vua Nam ở. Rành rành định phận tại sách trời…”. Cái lý lẽ thuận theo thiên địa ấy cùng với tinh thần bất khuất của con dân trăm họ đã đuổi giặc Tống ra khỏi lãnh thổ quốc gia. Nguyễn Trãi đã viết tiếp bản tuyên ngôn thứ hai mang tên “Đại cáo Bình Ngô” với lời lẽ nhân văn, mà hùng hồn sấm sét: “Như nước Đại Việt ta từ trước, vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Núi sông bờ cõi đã chia. Phong tục Bắc Nam cũng khác…”. Và lần thứ ba, trên Quảng trường Ba Đình một ngày mùa Thu 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đại diện cho tinh thần và ý chí Việt Nam, tuyên bố: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”. Những bản tuyên ngôn ấy chính là “cốt thép” dựng nên đài vinh quang cho Thăng Long - Hà Nội - Việt Nam, trong quá khứ xa xưa, trong hiện tại và muôn đời mai sau…
Về Hà Nội dịp này tôi lại được nghe nhắc nhiều về “Thăng Long văn vật”, “Hà Nội ngàn năm văn hiến”. Theo nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc, “Chu Hy (đời Tống), giải thích: “Văn: điền tịch dã, hiến: hiền dã”. Có thể hiểu: “Văn” tức là văn hóa, chỉ khuôn phép, trước tác, sách vở; “hiến” là người hiền tài của đất nước. GS Vũ Khiêu khẳng định: “Từ văn hiến lần đầu tiên xuất hiện trong “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi (1428) rồi sau đó được tiếp nối sử dụng trong ngôn ngữ Việt Nam”. Từ “văn hiến” ấy đã được gắn với mảnh đất và con người Thăng Long như một sự hội nhập tinh hoa Việt Nam, và lại từ Thăng Long tỏa sáng trên mọi miền đất nước. Trong trường ca âm thanh “Người Hà Nội” của Nguyễn Đình Thi, cảm xúc ấy được khái quát bởi những ca từ rộng mở, phóng khoáng và giai điệu trầm hùng: “Đây Hồ Gươm, Hồng Hà, Hồ Tây. Nơi lắng hồn núi sông ngàn năm… Đây Thăng Long, đây Đông Đô, đây Hà Nội. Hà Nội mến yêu!...”.
Cũng bởi cảm xúc lắng hồn núi sông ấy mà mỗi lần bước chân trên đường phố Thủ đô, tâm hồn tôi như đằm sâu hơn. Lịch sử tái hiện, hồn dân tộc như sống động trong từng khoảnh khắc dẫu trang sử liệt oanh đã dấu vào trầm tích. Bà Huyện Thanh Quan vào thời của mình đã hoài cổ về thành Thăng Long: “Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo. Nền cũ lâu đài bóng tịch dương…”. Còn Chế Lan Viên diễn tả tâm trạng của người Việt mất nước thời giặc Pháp đô hộ: “Quanh hồ Gươm không ai bàn chuyện vua Lê. Lòng ta đã thành rêu phong chuyện cũ…”. Tất cả đó đều là những dấu ấn xúc cảm mỗi thời về Hà Nội trong cõi ngàn năm. Còn người Hà Nội, người Việt Nam đương đại ôn lại truyền thống oai hùng của cha ông không chỉ bằng sự hoài cổ mà cả lòng tri ân thành kính. Nội lực Việt Nam hôm nay được bắt nguồn từ tâm thức người Việt buổi sơ khai. Rồng vàng Thăng Long bay lên tiếp cánh hạc Hùng Vương. Trống hội Thăng Long tiếp âm từ trống đồng Đông Sơn, Ngọc Lũ…
* * *
Mỗi lần về Thủ đô, tôi lại có dịp đứng dưới mái ngói rêu phong Khuê Văn Các và lắng nghe trong mạch đất, thớ đá ngàn năm rực sáng thiêng liêng tiếng của người xưa: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí vững thì thế nước mạnh và thịnh, nguyên khí kém thì thế nước yếu và suy”. (Văn bia của chí sĩ Thân Nhân Trung, thảo năm 1483). Tư tưởng ấy không bao giờ và không thời nào cũ. Đó là tầm nhìn lớn, là biểu tượng rực rỡ về phương kế nuôi dưỡng nhân tài của cha ông ta. Trên những văn bia khắc trên thanh thạch được xây dựng trong gần 300 năm (1484-1780), ngoài mục đích khuyến tài, khuyến học, lẽ sâu xa là răn kẻ sĩ muôn đời về đạo lý và trách nhiệm đối với đất nước, nhân dân, vương triều. Đó cũng là lời tiền nhân nhắn gửi gắm tới muôn đời sau. Dưới chân gác Khuê Văn, trong vùng thiêng liêng thẳm sâu nguyên khí, ta như lắng nghe rõ hơn và suy ngẫm sâu hơn lời dạy của tiền nhân về đạo học và đạo làm người. Từ cổng tòa Văn Miếu, tôi lại rảo bước chân trên những dãy phố Hà Nội, được ôn lại tên phố, tên đường, như là cách quỳ gối tưởng niệm những thế hệ cha ông đã xây đắp hào khí Thủ đô, nguyên khí Việt Nam, được làm trò nhỏ ê a học lời chánh đạo của các bậc hiền tài thuở trước. Các đại sĩ phu truyền danh thơm muôn thuở như Lê Quý Đôn, Chu Văn An, Nguyễn Văn Siêu; Lê Văn Hưu, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Trãi; rồi Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du… mãi mãi lưu dấu những giá trị trường tồn trong dòng chảy văn hiến Thăng Long - Hà Nội - Việt Nam…
Trên đường phố, tôi cũng đã gặp rất nhiều những người dân bình thường từ mọi miền Tổ quốc chọn đất lành Hà Nội tu thân, lập nghiệp. Cũng như cổ kim muôn thuở, không mấy ai trong họ được đề tên bia đá, bảng vàng, nhưng với trí lực của mình, chính mỗi người dân ấy đã góp từng viên đá nhỏ dựng nên một thế đứng vững vàng của Kinh thành thuở trước, Thủ đô hôm nay.