Nông lâm kết hợp, hướng đi bền vững cho miền núi phía bắc
Ngày 26/8, Trung tâm Khuyến nông quốc gia phối hợp Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Sơn La tổ chức Diễn đàn Khuyến nông, nông nghiệp với chủ đề 'Phát triển mô hình nông lâm kết hợp gắn với du lịch nông nghiệp và bảo vệ môi trường sinh thái'.

Khu vực miền núi phía bắc là vùng có diện tích nông lâm kết hợp lớn nhất cả nước.
Theo Trung tâm Khuyến nông quốc gia, những năm gần đây, nông lâm kết hợp ngày càng được khẳng định là một trong những mô hình sản xuất bền vững, đặc biệt phù hợp với các tỉnh trung du, miền núi phía Bắc, nơi địa hình dốc, khí hậu phân hóa, đất đai dễ thoái hóa.
Ưu thế của nông lâm kết hợp là kết hợp hài hòa giữa cây nông nghiệp, cây lâm nghiệp và chăn nuôi trên cùng một diện tích, vừa mang lại giá trị kinh tế ổn định, vừa cải thiện sinh kế, đồng thời bảo vệ tài nguyên đất, tăng độ che phủ rừng và thích ứng biến đổi khí hậu.
Hiện nay, khu vực miền núi phía bắc là vùng có diện tích nông lâm kết hợp lớn nhất cả nước, với nhiều mô hình phổ biến, như: Trồng rừng gỗ lớn (keo, mỡ, quế, hồi, sa mộc) kết hợp cây ngắn ngày (ngô, sắn, đậu tương) trong giai đoạn kiến thiết cơ bản.

Diễn đàn sẽ giúp các cơ quan chuyên môn và các địa phương đưa ra được nhiều giải pháp phù hợp với thực tiễn.
Khu vực miền núi phía bắc còn có diện tích lớn trồng cây ăn quả đặc sản (xoài, nhãn, mận hậu, bưởi da xanh) xen dưới tán rừng; chăn nuôi bò, dê bán chăn thả trên đồng cỏ dưới tán cây lâu năm.
Một số tỉnh như Sơn La, Điện Biên, Lào Cai đã hình thành các vùng nông lâm kết hợp quy mô hàng chục nghìn hecta, gắn với hợp tác xã và doanh nghiệp chế biến.

Tại Sơn La, mô hình nông lâm kết hợp cũng đang được phát huy hiệu quả.
Từ các kết quả nghiên cứu và tổng kết thực tiễn địa phương, có thể phân loại các mô hình nông lâm kết hợp thành 5 nhóm chính: Mô hình lâm-nông; mô hình lâm-quả-chăn nuôi; mô hình lâm-dược liệu; mô hình nông-lâm-thủy sản và mô hình nông lâm kết hợp gắn du lịch sinh thái-nông nghiệp.
Có thể khẳng định, các mô hình nông lâm kết hợp đã giúp phục hồi đất thoái hóa, hạn chế xói mòn, giữ ẩm, tăng tích lũy carbon (7–10 tấn CO₂/ha/năm), cao hơn nhiều so với độc canh. Đồng thời, mô hình này giảm đáng kể việc sử dụng phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái.

Tại Diễn đàn đã có nhiều ý kiến tham gia về cơ chế, chính sách và các hình thức hỗ trợ nhằm mở rộng mô hình.
Về kinh tế-xã hội, nông lâm kết hợp đã tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập cho hàng vạn hộ dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số. Các hộ dân được hỗ trợ giống, kỹ thuật, tham gia tập huấn và hợp tác xã, từng bước hình thành chuỗi giá trị nông sản bền vững, gắn với thị trường trong và ngoài nước.
Tại Diễn đàn, các đại biểu tập trung thảo luận 4 nhóm vấn đề: Chia sẻ kinh nghiệm từ các mô hình nông lâm kết hợp gắn với du lịch cộng đồng mang lại hiệu quả kinh tế-xã hội; giải pháp xây dựng nông lâm kết hợp bền vững, vừa tạo giá trị kinh tế, vừa bảo vệ môi trường và giữ gìn bản sắc văn hóa.

Các đại biểu tham quan mô hình trồng chè tại Bình Thuận Farm, xã Bình Thuận, tỉnh Sơn La.
Diễn đàn cũng thảo luận về cơ chế, chính sách và các hình thức hỗ trợ nhằm duy trì, mở rộng mô hình; cơ hội phát triển nông lâm kết hợp gắn với du lịch sinh thái, kinh tế xanh và các cam kết giảm phát thải khí nhà kính.
Thông qua diễn đàn sẽ giúp các cơ quan chuyên môn và các địa phương đưa ra được nhiều giải pháp trong việc đầu tư hạ tầng giao thông, thủy lợi; đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật; xây dựng chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ gắn với truy xuất nguồn gốc; hỗ trợ vốn vay ưu đãi và tăng cường đào tạo, thay đổi tư duy sản xuất từ nhỏ lẻ sang hàng hóa.