Nông nghiệp năm 2023: Thủy sản nuôi trồng tăng khá, sản lượng lúa lập kỷ lục 43,5 triệu tấn
Trong bối cảnh gặp nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt là về thị trường xuất khẩu lâm sản và thủy sản, song giá trị gia tăng toàn ngành (GDP) tăng cao, ước đạt 3,83%. Đây là mức tăng trưởng cao nhất trong 10 năm gần đây. Nông nghiệp tiếp tục khẳng định vị thế quan trọng, là trụ đỡ của nền kinh tế…
Theo Tổng cục Thống kê, tổng sản lượng lương thực có hạt của Việt Nam năm 2023 đạt 47,9 triệu tấn, tăng 790 nghìn tấn so với năm 2022. Trong đó, sản lượng ngô đạt 4,4 triệu tấn, giảm 4,7 nghìn tấn so với năm trước.
DIỆN TÍCH LÚA VÀ TRÁI CÂY TĂNG
Diện tích gieo trồng lúa đông xuân năm 2023 ước đạt 2.952,5 nghìn ha, giảm 39,8 nghìn ha so với năm trước nhưng do năng suất đạt 68,4 tạ/ha, tăng 1,6 tạ/ha nên sản lượng đạt 20,2 triệu tấn, tăng 213,3 nghìn tấn. Diện tích gieo trồng lúa hè thu cả nước năm 2023 đạt 1.912,8 nghìn ha, giảm 2,8 nghìn ha so với vụ hè thu năm 2022; năng suất đạt 57,6 tạ/ha, tăng 1 tạ/ha; sản lượng đạt 11 triệu tấn, tăng 181,5 nghìn tấn.
"Diện tích lúa cả năm 2023 ước đạt 7,12 triệu ha (tính gộp cả 3 vụ), tăng 10,1 nghìn ha so với năm trước. Năng suất lúa bình quân trong năm 2023 ước đạt 61 tạ/ha, tăng 1 tạ/ha so với năm 2022. Tổng sản lượng lúa thu hoạch năm 2023 cao kỷ lục, đạt 43,5 triệu tấn, tăng 0,8 triệu tấn so với năm trước".
Tổng cục Thống kê.
Diện tích gieo trồng lúa thu đông năm nay ước đạt 708,8 nghìn ha, tăng 60,4 nghìn ha so với vụ thu đông năm trước; năng suất đạt 56,6 tạ/ha, tăng 0,8 tạ/ha; sản lượng ước đạt 4 triệu tấn, tăng 392 nghìn tấn.
Vụ lúa mùa năm nay cả nước gieo cấy được 1.545,3 nghìn ha, giảm 7,7 nghìn ha so với vụ mùa năm trước; năng suất ước đạt 53,2 tạ/ha, tăng 0,2 tạ/ha; sản lượng ước đạt 8,23 triệu tấn, tương đương vụ mùa năm trước.
Sản lượng lúa năm 2023 tăng so với năm trước do thời tiết thuận lợi, chuyển đổi cơ cấu giống lúa hợp lý, trình độ kỹ thuật canh tác ở các địa phương được nâng cao, năng suất tăng nên đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, đảm bảo an ninh lương thực, phục vụ chế biến và xuất khẩu.
Đối với cây hàng năm, diện tích gieo trồng một số cây hoa màu như ngô, khoai lang, lạc, đậu tương giảm so với năm trước do hiệu quả kinh tế không cao, nông dân thu hẹp sản xuất để tập trung vào trồng rau hoặc chuyển sang trồng cây ăn quả, cây làm thức ăn chăn nuôi, thực hiện kinh tế nông nghiệp tuần hoàn.
Cụ thể, một số loại cây ngắn ngày: diện tích ngô đạt 885,4 nghìn ha, giảm 1,6 nghìn ha so với năm trước, sản lượng ước đạt 4,4 triệu tấn, giảm 0,1%; diện tích khoai lang đạt 80 nghìn ha, giảm 6,2 nghìn ha, sản lượng ước đạt 914 nghìn tấn, giảm 62,5 nghìn tấn; diện tích đậu tương đạt 30,1 nghìn ha, giảm 2,3 nghìn ha, sản lượng ước đạt 48,3 triệu tấn, giảm 3,8 nghìn tấn; diện tích lạc đạt 153 nghìn ha, giảm 6,4 nghìn ha, sản lượng ước đạt 401,6 nghìn tấn, giảm 6,4 nghìn tấn; diện tích rau các loại đạt 999 nghìn ha, tăng 11,1 nghìn ha, sản lượng ước đạt 19 triệu tấn, tăng 379,7 nghìn tấn.
Năm 2023, diện tích trồng cây lâu năm đạt 3.760,3 nghìn ha, tăng 1,1% so với năm 2022, trong đó nhóm cây công nghiệp đạt 2.161,4 nghìn ha, giảm 0,9%. Trong nhóm cây công nghiệp, diện tích cao su đạt 908,9 nghìn ha, giảm 1,1% so với năm trước, sản lượng đạt 1.293,1 nghìn tấn, giảm 3,4%. Trong đó: diện tích cà phê đạt 715,8 nghìn ha, tăng 1%, sản lượng đạt 1.974,4 nghìn tấn, tăng 1%; chè diện tích đạt 122,6 nghìn ha, giảm 0,6%, sản lượng chè búp đạt 1.135,8 nghìn tấn, tăng 1,7%; điều diện tích đạt 301,1 nghìn ha, giảm 2,8%, sản lượng đạt 343,3 nghìn tấn, tăng 4,4%; hồ tiêu diện tích đạt 113 nghìn ha, giảm 5,5%, sản lượng đạt 252,2 nghìn tấn, giảm 7,3%.
Diện tích nhóm cây ăn quả đạt 1.267,3 nghìn ha, tăng 4,1% so với năm trước. Trong đó: cam đạt diện tích đạt 71,7 nghìn ha, giảm 5,9% so với năm trước, sản lượng 1.798,3 nghìn tấn, tăng 1%; xoài diện tích đạt 93,8 nghìn ha, tăng 3%, sản lượng đạt 1.016,6 nghìn tấn, tăng 5,2%; sầu riêng diện tích đạt 76,6 nghìn ha, tăng 39%, sản lượng đạt 1.185,5 nghìn tấn, tăng 37,3%; nhãn diện tích đạt 69,9 nghìn ha, tăng 2,6%, sản lượng đạt 695,3 nghìn tấn, tăng 5,2%; vải diện tích đạt 52,2 nghìn ha, tăng 1,2%, sản lượng đạt 384,7 nghìn tấn, tăng 2,5%; thanh long diện tích đạt 50,1 nghìn ha, giảm 5,3%, sản lượng đạt 1.226,9 nghìn tấn, giảm 4,4%.
SẢN LƯỢNG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN TĂNG 4,2%
Đề cập về ngành lâm nghiệp, Tổng cục Thống kê cho hay diện tích rừng trồng mới tập trung trong quý 4/2023 cả nước ước đạt 103,5 nghìn ha, giảm 5% so với cùng kỳ năm trước do thời tiết không thuận lợi làm ảnh hưởng đến tiến độ trồng rừng mới.
Sản lượng gỗ khai thác trong quý 4 đạt 6.365,1 nghìn m3, tăng 2,6%. Tính chung cả năm 2023, diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 298,2 nghìn ha, giảm 2,7% so với năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 116,3 triệu cây, tăng 5,2%. Sản lượng gỗ khai thác trong cả năm 2023 đạt 20,8 triệu m3, tăng 2,8%.
Trong năm 2023, cả nước có 1.722,3 ha rừng bị thiệt hại, tăng 53,5% so với năm trước. Trong đó, diện tích rừng bị chặt, phá là 1.047,8 ha, giảm 3%; diện tích rừng bị cháy là 674,5 ha, gấp 16,3 lần năm 2022.
Đối với lĩnh vực thủy sản, Tổng cục Thống kê cho biết sản lượng thủy sản thu hoạch trong quý 4/2023 ước đạt 2.516,3 nghìn tấn, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước. Bao gồm: Cá đạt 1.757,7 nghìn tấn, tăng 1,9%; tôm đạt 396,2 nghìn tấn, tăng 6,4%; thủy sản khác đạt 362,4 nghìn tấn, tăng 1,7%.
"Tính chung cả năm 2023, tổng sản lượng thủy sản ước đạt 9.312,3 nghìn tấn, tăng 2,2% so với năm 2022. Bao gồm: Cá đạt 6.612,6 nghìn tấn, tăng 1,8%; tôm đạt 1.356,1 nghìn tấn, tăng 5%; thủy sản khác đạt 1.343,6 nghìn tấn, tăng 1,7% so với năm trước".
Theo Tổng cục Thống kê
Sản lượng thủy sản nuôi trồng quý 4/2023 ước đạt 1.650,3 nghìn tấn, tăng 5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá đạt 1.113,1 nghìn tấn, tăng 4,1%; tôm đạt 356,5 nghìn tấn, tăng 7,5%. Tính chung năm 2023, sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 5.455,8 nghìn tấn, tăng 4,2% so với năm trước, bao gồm: Cá đạt 3.631,4 nghìn tấn, tăng 3,7%; tôm đạt 1.211,6 nghìn tấn, tăng 5,8%; thủy sản khác đạt 612,8 nghìn tấn, tăng 4,8%.
Nuôi trồng cá tra ở đồng bằng sông Cửu Long phát triển do các yếu tố tự nhiên thuận lợi và kinh nghiệm nuôi đã được tích lũy qua nhiều năm cùng với nhu cầu thị trường xuất khẩu lớn. Sản lượng cá tra quý 4/2023 ước đạt 513,1 nghìn tấn, tăng 3,6% so cùng kỳ năm trước; tính chung năm 2023 ước đạt 1.752,2 nghìn tấn, tăng 2,8% so với năm trước.
Sản lượng tôm nước lợ tăng trưởng cao do áp dụng mô hình công nghệ cao đối với tôm thẻ chân trắng mang lại hiệu quả kinh tế. Sản lượng tôm thẻ chân trắng quý 4/2023 ước đạt 260,5 nghìn tấn, tăng 9,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung cả năm 2023 ước đạt 858,6 nghìn tấn, tăng 7,1% so với năm 2022. Sản lượng tôm sú quý IV/2023 ước đạt 69,2 nghìn tấn, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước, tính chung cả năm ước đạt 275 nghìn tấn, tăng 2% so với năm trước.
Sản lượng thủy sản khai thác quý 4/2023 ước đạt 866 nghìn tấn, giảm 1,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó. Tính chung năm 2023, sản lượng thủy sản khai thác ước đạt 3.856,5 nghìn tấn, giảm 0,5% so với năm trước.
Trong đó, khai thác hải sản biển năm 2023 giảm do thực hiện khai thác bền vững đảm bảo tái tạo nguồn lợi thủy sản tự nhiên, đồng thời công tác phòng, chống khai thác thủy sản bất hợp pháp dần được thực hiện nghiêm túc.
Sản lượng hải sản khai thác biển quý 4/2023 ước đạt 802,7 nghìn tấn, giảm 2,2% so với quý 4/2022. Tính chung năm 2023, sản lượng thủy sản khai thác biển đạt 3.643,9 nghìn tấn, giảm 0,7% so với năm trước.