Nông nghiệp Việt Nam: Hành trình thần kỳ bằng mồ hôi và khát vọng

Thành công của hạt gạo từ những năm còn khó khăn đã mở đường cho một cuộc bứt phá toàn diện của ngành nông nghiệp, đưa Việt Nam trở thành cường quốc xuất khẩu nông sản trên thế giới.

Ở Việt Nam, nông nghiệp không chỉ là một ngành kinh tế mà còn là cội rễ văn hóa, là chứng nhân lịch sử và là bệ phóng cho hành trình chuyển mình kỳ diệu của cả một quốc gia. Từ những hũ gạo kháng chiến chắt chiu trong chiến tranh đến vị thế cường quốc xuất khẩu nông sản ngày nay, câu chuyện của nông nghiệp Việt Nam là một bản hùng ca về sự kiên cường, trí tuệ và khát vọng vươn lên không ngừng nghỉ.

Mạch sống nuôi dưỡng dân tộc

Ngược thời gian về những năm tháng gian khó nhất, trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ, khẩu hiệu “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” không chỉ là lời hiệu triệu, mà còn là mệnh lệnh của trái tim. Hậu phương miền Bắc đã trở thành một công xưởng nông nghiệp khổng lồ, nơi mỗi tấc đất, mỗi giọt mồ hôi đều hướng về tiền tuyến miền Nam.

Hạt gạo khi ấy mang một sứ mệnh thiêng liêng hơn cả giá trị dinh dưỡng. Nó là biểu tượng của sự sẻ chia, của tình đoàn kết Bắc-Nam. Hình ảnh những chiếc xe đạp thồ gạo vượt núi, băng rừng trong chiến dịch Điện Biên Phủ hay những người mẹ, người chị gùi từng cân lương thực vượt qua mưa bom bão đạn trên con đường Trường Sơn đã trở thành huyền thoại bất tử. Gạo không chỉ nuôi quân đội, mà còn nuôi dưỡng ý chí và niềm tin vào ngày chiến thắng.

Hòa bình lập lại năm 1975, nhưng vết thương chiến tranh còn hằn sâu. Đất nước đối mặt với một cuộc chiến mới, không kém phần cam go: Cuộc chiến chống đói nghèo. Sau năm 1975, nước ta tiến hành chủ trương hợp tác hóa. Ruộng đất của nông dân được tập hợp lại để tổ chức canh tác tập thể dưới hình thức hợp tác xã. Tuy nhiên, mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, với các hợp tác xã nông nghiệp, đã dần dần không phát huy hiệu quả.

 Khoán 10 đã thay đổi căn bản nền kinh tế nông nghiệp của cả nước. (Ảnh: Văn Lạn/TTXVN)

Khoán 10 đã thay đổi căn bản nền kinh tế nông nghiệp của cả nước. (Ảnh: Văn Lạn/TTXVN)

Khi người nông dân không có quyền sở hữu ruộng đất, động lực sản xuất suy giảm nghiêm trọng. Hệ quả là một nghịch lý đau xót đã xảy ra, một quốc gia có nền văn minh lúa nước hàng ngàn năm lại rơi vào tình trạng thiếu lương thực triền miên. Giai đoạn cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980 là ký ức không thể quên về những bữa cơm độn sắn, khoai, bo bo.

Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, vào giữa những năm 1980, Việt Nam vẫn là một trong những quốc gia có thu nhập nhất thế giới, phải nhập khẩu lương thực mỗi năm để cứu đói. Từ năm 1976 đến 1980, dù sản xuất trong điều kiện đất nước không có chiến tranh, nhưng Việt Nam vẫn phải nhập 5,6 triệu tấn lương thực, thực phẩm. Trong 5 năm tiếp theo, Việt Nam tiếp tục rơi vào cảnh thiếu lương thực. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, từ năm 1981-1985, Việt Nam phải nhập trên 1 triệu tấn lương thực.

Chính trong bối cảnh tăm tối đó, một nhu cầu thay đổi bức thiết đã nhen nhóm, bắt nguồn từ chính những người nông dân và những mảnh ruộng cằn cỗi.

"Khoán 10" - Chìa khóa vàng giải phóng sản xuất nông nghiệp

Bước ngoặt lịch sử của ngành nông nghiệp và cũng là của đất nước đến vào năm 1988 với sự ra đời của Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, thường được gọi là “Khoán 10.” Nghị quyết này đã chính thức thừa nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, giao quyền sử dụng đất lâu dài cho người dân. Đây không chỉ là một sự thay đổi về chính sách, mà là một cuộc cách mạng về tư duy.

 Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh thăm cánh đồng lúa Hợp tác xã Hải Vân, huyện Hải Hậu trong chuyến về thăm và làm việc tại tỉnh Hà Nam Ninh từ ngày 25 - 29/5/1988. (Ảnh: Xuân Lâm/TTXVN)

Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh thăm cánh đồng lúa Hợp tác xã Hải Vân, huyện Hải Hậu trong chuyến về thăm và làm việc tại tỉnh Hà Nam Ninh từ ngày 25 - 29/5/1988. (Ảnh: Xuân Lâm/TTXVN)

Lần đầu tiên sau nhiều năm, người nông dân được làm chủ trên chính mảnh đất của mình. Họ làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít. Động lực bị kìm nén bấy lâu nay được giải phóng, tạo ra một sức bật phi thường. Nông dân hăng hái đầu tư công sức, tiền của vào sản xuất, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật. Năng suất lúa tăng vọt một cách đáng kinh ngạc.

Kết quả của “Khoán 10” đến nhanh như một phép màu. Chỉ một năm sau khi Nghị quyết 10 ra đời, năm 1989, Việt Nam từ một nước phải nhập khẩu lương thực, đã lần đầu tiên xuất khẩu được 1,4 triệu tấn gạo. Con số này không chỉ là một thống kê kinh tế mà còn là một lời tuyên bố đanh thép về sự hồi sinh của một dân tộc.

Kết quả của “Khoán 10” đến nhanh như một phép màu. Chỉ một năm sau khi Nghị quyết 10 ra đời, năm 1989, Việt Nam từ một nước phải nhập khẩu lương thực, đã lần đầu tiên xuất khẩu được 1,4 triệu tấn gạo. Con số này không chỉ là một thống kê kinh tế mà còn là một lời tuyên bố đanh thép về sự hồi sinh của một dân tộc.

Kể từ cột mốc lịch sử đó, hành trình của hạt gạo Việt Nam trên trường quốc tế là một đường đi lên đầy ấn tượng: Trong thập niên 1990, Việt Nam nhanh chóng khẳng định vị thế trong top 3 nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, bên cạnh Thái Lan và Mỹ; đến năm 2012, Việt Nam lần đầu tiên vượt qua Thái Lan, vươn lên vị trí số một thế giới về lượng gạo xuất khẩu với 7,72 triệu tấn.

Năm 2024, ngành gạo xác lập kỷ lục xuất khẩu mới cả về sản lượng và kim ngạch, lần đầu tiên xuất khẩu vượt 9 triệu tấn, mang về gần 5,8 tỷ USD, củng cố vị thế quốc gia xuất khẩu gạo top 3 thế giới của Việt Nam. Trong 7 tháng đầu 2025, Việt Nam đã xuất khẩu 5,5 triệu tấn gạo, đạt giá trị 2,81 tỷ USD. Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) tự tin dự báo cả năm 2025 sẽ xuất khẩu khoảng 8,8 triệu tấn, giữ vị trí quốc gia lớn thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo.

 "Khoán 10" đã khẳng định hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ, làm thay đổi căn bản nền kinh tế nông nghiệp của cả nước. (Ảnh: Đình Na, Bùi Tường/TTXVN)

"Khoán 10" đã khẳng định hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ, làm thay đổi căn bản nền kinh tế nông nghiệp của cả nước. (Ảnh: Đình Na, Bùi Tường/TTXVN)

Hành trình này không chỉ là sự gia tăng về số lượng mà còn là cuộc chuyển mình từ việc bán gạo cấp thấp, giá rẻ sang chinh phục các thị trường khó tính bằng những sản phẩm chất lượng cao. Gạo Việt Nam liên tục được vinh danh là “Gạo ngon nhất thế giới,” trở thành một cú hích nâng tầm thương hiệu cho cả ngành lúa gạo Việt Nam.

Đặc biệt, những lô hàng gạo phát thải thấp đầu tiên của Việt Nam cũng đã được xuất khẩu. Tất cả là chứng minh rằng, nông dân Việt Nam không chỉ cần cù, mà còn vô cùng sáng tạo và có khả năng tạo ra những sản phẩm đỉnh cao.

Vươn ra biển lớn

Thành công của hạt gạo từ những năm còn khó khăn đã mở đường cho một cuộc bứt phá toàn diện của ngành nông nghiệp. Việt Nam không “bỏ tất cả trứng vào một giỏ” mà ngày càng phát triển đa dạng các ngành hàng chủ lực, tạo thành một hệ sinh thái xuất khẩu vững chắc.

Việt Nam được thiên nhiên ưu đãi với địa hình đa dạng từ vùng núi cao phía Bắc đến đồng bằng châu thổ phía Nam, khí hậu nhiệt đới gió mùa ôn hòa và hệ thống sông ngòi dày đặc, tạo nên một kho tàng nông sản phong phú hiếm có. Từ những cánh đồng lúa bát ngát ở Đồng bằng sông Cửu Long, những đồi chè xanh mướt ở Tây Bắc, đến những vườn càphê thơm nồng ở Tây Nguyên, mỗi vùng miền đều có những sản phẩm nông nghiệp đặc trưng, tạo nên bức tranh nông nghiệp đa sắc màu của đất nước.

Thành công của hạt gạo từ những năm còn khó khăn đã mở đường cho một cuộc bứt phá toàn diện của ngành nông nghiệp. Việt Nam không “bỏ tất cả trứng vào một giỏ” mà ngày càng phát triển đa dạng các ngành hàng chủ lực, tạo thành một hệ sinh thái xuất khẩu vững chắc.

Về phương diện an ninh lương thực, sự đa dạng nông sản chính là tấm lá chắn vững vàng cho 100 triệu người dân. Đặc biệt, trong những năm gần đây, khi thế giới đối mặt với khủng hoảng lương thực do biến đổi khí hậu và đại dịch, Việt Nam vẫn duy trì được sự ổn định về lương thực nhờ vào sự đa dạng này.

Song song với việc củng cố an ninh nội địa, sự đa dạng nông sản đã mở ra cánh cửa xuất khẩu rộng lớn, đưa Việt Nam trở thành một cường quốc nông nghiệp trên bản đồ thế giới. Tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản năm 2024 đạt mức cao kỷ lục 62,5 tỷ USD là minh chứng hùng hồn nhất.

Việt Nam hiện là cường quốc xuất khẩu càphê lớn thứ hai thế giới (chỉ sau Brazil) và đứng số một thế giới về càphê Robusta. Từ những đồn điền ở Tây Nguyên, hạt càphê Việt Nam đã có mặt tại hơn 80 quốc gia. 6 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu càphê của Việt Nam đạt 5,45 tỷ USD với 953.900 tấn, gần bằng kim ngạch cả năm 2024 là 5,48 tỷ USD.

 Thu hoạch cà phê được trồng bằng phương pháp hữu cơ. (Ảnh: Hồng Điệp/TTXVN)

Thu hoạch cà phê được trồng bằng phương pháp hữu cơ. (Ảnh: Hồng Điệp/TTXVN)

Câu chuyện của càphê không chỉ dừng lại ở việc xuất khẩu hạt thô. Các doanh nghiệp Việt Nam đang ngày càng đầu tư vào chế biến sâu, tạo ra các sản phẩm càphê hòa tan, càphê rang xay chất lượng cao, từng bước xây dựng thương hiệu riêng trên bản đồ càphê thế giới. Giữ vững các thị trường truyền thống, tăng cường xuất khẩu càphê chế biến sâu là giải pháp để ngành hàng này cán mốc mục tiêu 7 tỷ USD cả năm 2025.

Nếu lúa gạo, càphê là những “cây đại thụ” thì ngành rau quả là một “ngôi sao đang lên” đầy tiềm năng với tốc độ tăng trưởng ấn tượng. Những trái thanh long, sầu riêng, vải thiều, xoài của Việt Nam không còn là sản phẩm xa lạ tại các siêu thị quốc tế.

Xuất khẩu rau quả năm 2024 cũng lập mốc kỷ lục mới với 7,12 tỷ USD. Đặc biệt, trái sầu riêng đã trở thành một hiện tượng với kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc đạt trên 3 tỷ USD. Thành công này là kết quả điển hình của các nỗ lực đàm phán mở cửa thị trường, xây dựng mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói, đảm bảo truy xuất nguồn gốc và chất lượng sản phẩm.

Hành trình con tôm, con cá chinh phục năm châu cũng là thành tựu lớn của ngành nông nghiệp. Cá tra và tôm là hai “át chủ bài” chiến lược xuất khẩu thủy sản. Việt Nam hiện là nhà sản xuất và xuất khẩu cá tra lớn nhất thế giới, và là một trong những nhà cung cấp tôm hàng đầu toàn cầu. Xuất khẩu thủy sản năm 2024 đạt 10,07 tỷ USD và đã chinh phục những thị trường khó tính nhất như EU, Mỹ, Nhật Bản.

 Chế biến cá tra xuất khẩu tại nhà máy của tập đoàn Sao Mai (An Giang). (Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN)

Chế biến cá tra xuất khẩu tại nhà máy của tập đoàn Sao Mai (An Giang). (Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN)

Ngoài ra, Việt Nam còn có nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực khác như: Gỗ, hạt điều, hạt tiêu… Chính sự phong phú về nông sản đã giúp Việt Nam khẳng định vị thế trên bản đồ xuất khẩu nông nghiệp thế giới. Việc tiếp tục đầu tư vào công nghệ, chế biến sâu và xây dựng thương hiệu sẽ giúp Việt Nam khai thác hiệu quả hơn nữa lợi thế này, đưa ngành nông nghiệp ngày càng phát triển bền vững.

Vững bước vào kỷ nguyên mới

Hành trình bứt phá của nông nghiệp Việt Nam dù rực rỡ nhưng phía trước vẫn còn nhiều thách thức. Trong đó, biến đổi khí hậu là thách thức lớn nhất và hiện hữu nhất. Đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa và thủy sản của cả nước, đang đối mặt với nguy cơ sụt lún, xâm nhập mặn và hạn hán ngày càng nghiêm trọng. Theo một báo cáo của Ngân hàng Thế giới, nếu mực nước biển dâng 1 mét, gần 40% diện tích Đồng bằng sông Cửu Long có thể bị ngập, đe dọa an ninh lương thực quốc gia.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã thẳng thắn thừa nhận dù đã có nhiều tiến bộ, phần lớn sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam vẫn ở quy mô hộ gia đình, sản xuất nhỏ lẻ, manh mún gây khó khăn cho việc áp dụng công nghệ cao, cơ giới hóa đồng bộ và kiểm soát chất lượng.

Sự phụ thuộc vào một vài thị trường lớn (như Trung Quốc, Hoa Kỳ) tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trong khi đó, các thị trường cao cấp như EU, Nhật Bản lại liên tục dựng lên các hàng rào kỹ thuật và tiêu chuẩn xanh, đòi hỏi nông sản Việt phải không ngừng cải tiến.

Để vượt qua thách thức và tiếp tục hành trình bứt phá, nông nghiệp Việt Nam đang chuyển mình mạnh mẽ theo hướng bền vững và công nghệ cao, dựa trên ba trụ cột chính trong Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050: Nông nghiệp sinh thái, Nông thôn hiện đại, Nông dân thông minh.

 (Ảnh: TTXVN)

(Ảnh: TTXVN)

Khẳng định Việt Nam là dải đất dài, mỗi vùng sinh thái là một kho báu, ông Lê Minh Hoan, Phó Chủ tịch Quốc hội, nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho rằng: “Trong không gian phát triển mới, không có chỗ cho tư duy ‘ngành nào lo việc nấy.’ Cũng không thể phát triển môi trường theo cách rào lại - cấm đoán - giám sát, mà chuyển sang phục hồi - tích hợp - đồng kiến tạo. Một không gian nông nghiệp không chỉ sản xuất.”

Theo ông Lê Minh Hoan, tư duy mới ấy đòi hỏi cách tiếp cận đa ngành - liên ngành - xuyên ngành. Nông nghiệp kết hợp với công nghiệp, khoa học để chế biến sâu, giảm tổn thất. Nông nghiệp kết hợp với công nghệ, chuyển đổi số để kiểm soát quy trình, truy xuất, ra thị trường. Nông nghiệp kết nối với văn hóa, giáo dục để giữ lại bản sắc, gắn với du lịch, làm sống lại truyền thống nghề nông bằng hơi thở hiện đại.

“Từ những cánh đồng hòa bình năm nào, chúng ta bước vào một cánh đồng mới, cánh đồng của chất lượng, cánh đồng của xanh bền vững, cánh đồng của niềm tin và hy vọng. Giờ đây, ta cần thêm một tầm nhìn thống nhất, một tinh thần liên kết mạnh mẽ, và một trái tim can đảm để dựng xây mùa vàng mới cho quê hương mình. Thống nhất đất nước - dựng xây nông nghiệp, để mỗi mùa vụ xanh là mỗi bước tiến của một quốc gia hạnh phúc. Nông nghiệp xanh kiến tạo tương lai xanh, Nông nghiệp tử tế kiến tạo thế hệ người tử tế, tử tế với con người, với thiên nhiên và tử tế với chính mình,” ông Lê Minh Hoan nhấn mạnh

“Người nông dân phải được ấm no, hạnh phúc hơn, nông thôn hiện đại hơn, nông nghiệp phải tiên tiến hơn. Người nông dân là trung tâm, là chủ thể, nông nghiệp là động lực, nông thôn là nền tảng.”

Thủ tướng Phạm Minh Chính

Từ một nền nông nghiệp tự cung tự cấp, chịu nhiều tổn thương sau chiến tranh, Việt Nam đã viết nên một câu chuyện thần kỳ, trở thành một cường quốc nông sản, góp phần quan trọng vào việc đảm bảo an ninh lương thực không chỉ cho quốc gia mà còn cho cả thế giới. Hành trình của hạt gạo, hạt càphê, con tôm, trái sầu riêng... không chỉ là những con số kim ngạch xuất khẩu ấn tượng. Đằng sau đó là mồ hôi, nước mắt, là trí tuệ và sự nhạy bén của hàng triệu người nông dân, là những quyết sách mang tính lịch sử của Đảng và Nhà nước.

Hành trình bứt phá này vẫn đang tiếp diễn. Người nông dân Việt Nam hôm nay không chỉ cần cù, mà còn đang trở thành những “doanh nhân’ trên chính mảnh đất của mình, tự tin ứng dụng công nghệ, kết nối thị trường và kiến tạo tương lai. Như Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nhấn mạnh khi giao nhiệm vụ cho ngành nông nghiệp trong năm 2025: “Người nông dân phải được ấm no, hạnh phúc hơn, nông thôn hiện đại hơn, nông nghiệp phải tiên tiến hơn. Người nông dân là trung tâm, là chủ thể, nông nghiệp là động lực, nông thôn là nền tảng.”

Nông nghiệp sẽ mãi là niềm tự hào, là cội rễ vững chắc để Việt Nam tiếp tục vươn cao, bay xa trên trường quốc tế./.

(Vietnam+)

Nguồn VietnamPlus: https://www.vietnamplus.vn/nong-nghiep-viet-nam-hanh-trinh-than-ky-bang-mo-hoi-va-khat-vong-post1056449.vnp