Núi Đọi sông Châu và dòng chảy lịch sử bất tận

Câu ca 'Núi Đọi ai đắp mà cao/Ngã ba sông Lệnh ai đào nên sâu/ Khen ai khéo bắc cầu Châu/ Khéo bắc cầu Hầu cho cả đường Ngang...' đi vào lòng nhân dân từ bao đời như khẳng định ranh giới của tạo hóa và những đặc điểm vốn có của di sản. Núi Đọi - sông Châu không chỉ là biểu tượng núi - sông của Hà Nam, mà còn mang những dấu tích minh chứng cho sự phát triển xã hội, con người và văn hóa vùng đất Duy Tiên trong dòng chảy lịch sử bất tận.

Từ ngọn núi cô đơn...

Trong bằng phẳng đất đai, sông ngòi vây quanh, núi Đọi nhô lên giữa ruộng đồng trù phú, thể hiện sự duy nhất và cao nhất giữa đồng bằng phì nhiêu này! Trong quan niệm của người xưa, ngọn núi ấy như một trục vũ trụ, hút sinh khí của trời rồi truyền tải xuống đất cho muôn loài động vật. Người thầy của tôi, PGS, TS Trần Lâm Biền, nhà nghiên cứu di sản văn hóa, qua nhiều lần khảo sát, nghiên cứu văn hóa khu vực núi Đọi, chùa Đọi và lễ hội Tịch Điền đã khẳng định: Trên đất nước này, có biết bao nhiêu quả núi cô đơn, đột ngột nổi lên giữa biển lúa mênh mông, như: núi Phật Tích, Long Hạm, Chương Sơn, Trường Long và xa xôi như núi Bà Đen chẳng hạn. Song, rõ ràng là, gần như chỉ có Đọi Sơn là nằm giữa vùng lãnh thổ của người Việt... Đặc biệt, nơi đây còn là vùng đất liên quan chặt chẽ với vua Lê Đại Hành, nhà vua đầu tiên với những luống cày tâm linh trong lịch sử...

Núi Đọi - sông Châu. Ảnh: Thế Tuân

Núi Đọi - sông Châu. Ảnh: Thế Tuân

Điều này có lý theo kết quả nghiên cứu văn hóa của Giáo sư Trần Quốc Vượng, người quê gốc ở làng Lê Xá, xã Tiên Sơn (thị xã Duy Tiên): Khoảng một hai triệu năm về trước, xảy ra một đợt tạo sơn tạo nên một miền “đứt gãy sông Hồng”, đồng thời tạo nên một miền sụt lún ở giữa của bán bình nguyên Trung sinh, tạo nên dãy “nút sót” sa phiến thạch hay đá hỗn hợp, như Đọi Sơn, Điệp Sơn, dải núi đất đá Thanh Liêm... Càng về sau, các đợt biển tiến, biển lùi đã tạo nên vùng châu thổ ô trũng Hà Nam Ninh với một nền văn hóa, văn minh Đông Sơn rực rỡ sau khi con người bắt tay vào công cuộc khai phá, tạo nên thời đại các Vua Hùng.

Từ ngọn núi cô đơn này, những cuộc hành hương vào di sản được mở ra. Sự tồn tại của các công trình kiến trúc mang những giá trị tiêu biểu về văn hóa dân tộc, là sản phẩm rực rỡ của nhà nước phong kiến cổ xưa. Nhà nghiên cứu Trần Lâm Biền nhắc lại với tôi thêm một lần: Đọi Sơn là một hòn núi thấp, nó như một trục vũ trụ hút sinh khí của trời Cha, truyền vào lòng đất Mẹ sinh sôi, nối trời với đất. Nếu không có núi Đọi không có Tịch điền ở đây đâu!... Trên núi Đọi tồn tại một ngôi chùa gần một nghìn năm tuổi, mang dấu tích lịch sử đặc biệt, kiêm hành cung, nơi vua ngự trong những lần đi kinh lý. Trong nghiên cứu văn hóa dân gian, những ngôi chùa như chùa Đọi được xếp loại Đại danh lam, thường được dựng gần sông nước hoặc ven biển. "Với núi Đọi là gần sông Châu. Từ bờ sông, một con ngòi được đào thẳng vào chân núi, gọi là ngòi “con tên” để thuyền của vua có thể lui tới một cách thuận lợi. Từ bến nước, một con đường thoai thoải, khá rộng đủ để rước kiệu/võng vua lên chùa”, PGS-TS Trần Lâm Biền dẫn biện như vậy. Núi Đọi đã trở thành một vùng “linh sơn linh địa” sau khi được “nhà Lý hành cung và đặt kho tài vật lớn ở đây”...

...đến dòng sông huyền thoại

Ngọn núi cô đơn giữa đồng bằng xanh mướt lúa ngô, soi bóng bên con sông dài huyền thoại mang tên Châu Giang, con sông có độ dài và độ uốn khúc lớn nhất tỉnh Hà Nam. Sông Châu in bóng trong tâm hồn con người một huyền thoại trữ tình về sự tuẫn tiết trung trinh của nàng Mỵ Ê. Tương truyền, Mỵ Ê là vợ của vua nước Chiêm Thành tên là Sạ Đẩu. Triều vua Thái Tông nhà Lý chinh phạt Chiêm Thành, Sạ Đẩu bị tử trận, quân triều đình bắt sống các cung phi, thê thiếp của Sạ Đẩu mang về. Thuyền đến sông Châu, vua thấy cốt cách của nàng Mỵ Ê khác thường, muốn vời đến để chầu Ngự thuyền. Mỵ Ê không giấu được sự phẫn uất, đau buồn vì cái chết của chồng nên đã chối từ và gieo mình xuống dòng sông tự vẫn. Hai nàng a hoàn của Mỵ Ê giữ lòng trung với chủ, không màng xuân xanh cũng trẫm mình xuống dòng sông. Nước sông Châu lúc nào cũng trong vắt, nhìn thấu bờ, thấu đáy. Dân gian truyền nhau, nó là nước mắt của các nàng. Con sông này có rất nhiều ngọc trai quý sinh sống. Theo Giáo sư Trần Quốc Vượng, ngọc trai của sông Châu “không chỉ quý vì viên ngọc, mà cái vỏ của nó cũng rất quý trên thị trường thế giới trước kia cũng như ngày nay. Có lúc sau Hiệp định Giơ-ne-vơ (1954), Ty Canh nông Hà Nam, rồi Nam Hà sau này đã có kế hoạch nuôi trai ngọc trên sông Châu...”. Và, Giáo sư nghĩ rằng, “con sông này mang tên Châu vì có loại ngọc trai này”.

Một góc thành phố Phủ Lý. Ảnh: Lê Dũng

Một góc thành phố Phủ Lý. Ảnh: Lê Dũng

Ôm ấp một huyền thoại đẹp đến như thế, nhưng theo thời gian, theo dòng chảy của lịch sử, dòng sông ấy còn chứa đựng những câu chuyện khác liêu trai hơn. Nhà nghiên cứu Bùi Văn Cường kể rằng, trên dọc con sông huyền thoại này, có một chiếc cầu bắc ngang nối liền hai xã Đinh Xá (thuộc thành phố Phủ Lý) với xã Tiên Sơn (thị xã Duy Tiên) tên là Câu Tử. Vào thời vua Lê Đại Hành, có một vị tướng quân theo vua về vùng đất Đọi Sơn giúp dân chăm lo việc cày cấy. Khi trở ra, vị tướng cưỡi một con ngựa trắng đến bến Thọ Kiều đòi sang sông. Người chở đò ngang không chở ngựa, vì con đò nhỏ, gió lại to, sợ bị đắm. Vị tướng quân không nỡ để ngựa quý ở lại, nài nỉ người lái đò. Cuối cùng tất cả đều lên đò, miễn cưỡng sang sông. Nhưng đến giữa dòng, sông nổi sóng lớn, con đò bị lật, người chở đò chỉ kịp cứu được vị tướng, còn con ngựa trôi theo dòng nước. Tiếc con ngựa quý, giận cái bến sông, vị tướng mới gọi bến Thọ Kiều là bến đò Câu Tử, nghĩa là bến đò chết ngựa. Nhà nghiên cứu văn hóa Bùi Văn Cường cho rằng, "cái tên này được lưu truyền vì nó lưu lại một thời vua quan và dân tình cùng chia sẻ nỗi nhọc nhằn gian khổ trên đồng ruộng cho đất nước thịnh giàu”.

Sông Châu là thế, nằm trọn trong lòng đất Hà Nam với chiều dài 58,6 km, ôm ấp bao sự tích lạ kỳ, chứng kiến bao cuộc đổi thay triều chính, bao cuộc cải cách xã hội, nhưng vẫn mang trong mình những vết thương chinh chiến chưa lành...

Từ bao giở bao giờ, sông Châu – núi Đọi đã trở thành một cặp sông – núi biểu trưng cho sự tồn tại văn hóa, con người và tự nhiên của vùng đất Duy Tiên nói riêng, Hà Nam nói chung. Nó là một cặp âm - dương, mẹ - cha trong tâm thức văn hóa người Việt, có chức năng sản sinh, duy trì sự sống. Nơi nào có cặp biểu tượng núi – sông như thế, nơi đó được xem là vùng địa linh nhân kiệt, sinh ra nhiều bậc hiền tài, làm rạng danh quê hương, đất nước.

Quả thật, trong dòng chảy lịch sử bất tận, mảnh đất Duy Tiên đã có 18 vị đỗ đại khoa, trong đó có nhiều vị được đề danh trên bia Tiến sĩ – Văn Miếu, Quốc Tử Giám. Vùng đất này là nơi phát hiện nhiều trống đồng thời Hùng Vương dựng nước; nơi có những anh hùng hào kiệt như Nguyễn Thiện, Nguyễn Vực (thời Hùng Vương), công chúa Nguyệt Nga (nữ tướng thời Hai Bà Trưng, người đã tuẫn tiết trên dòng dòng sông Châu huyền thoại), Anh hùng Dương Văn Nội, nhà cách mạng Nguyễn Hữu Tiến – người vẽ lá cờ đỏ sao vàng- Quốc kỳ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam... và còn lưu dấu 200 di tích và nhiều di sản văn hóa quý giá của dân tộc. Ngày nay, Duy Tiên đã và đang trở thành một đô thị tiềm năng, cánh cửa lớn của thủ đô được mở rộng, nối dài theo hành trình Bắc Nam phát triển.

Và, trong dòng chảy sôi động của cuộc sống, những người dân Duy Tiên đời này qua đời khác vẫn dành mọi tâm đức cho xây dựng các giá trị văn hóa, con người từ truyền thống quý báu của ông cha, từ kinh nghiệm thực tiễn phát triển của cách mạng, từ những sáng tạo không ngừng trong mọi lĩnh vực... tạo nên một “Bài ca Duy Tiên”.

Giang Nam

Nguồn Hà Nam: https://baohanam.com.vn/que-huong-nui-doi-song-chau/nui-doi-song-chau-va-dong-chay-lich-su-bat-tan-143339.html