Nuôi biển công nghiệp: Lợi thế rất lớn nhưng phát triển chưa tương xứng

Nếu thực hiện đồng bộ các giải pháp về thể chế, công nghệ, tổ chức sản xuất và nhân lực, Việt Nam có thể đạt mục tiêu 9-10 triệu tấn sản lượng nuôi biển và 20 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu vào năm 2045.

Nuôi cá lồng bè trên Vịnh Gia Luận-Cát Bà. (Ảnh: Trọng Đạt/TTXVN)

Nuôi cá lồng bè trên Vịnh Gia Luận-Cát Bà. (Ảnh: Trọng Đạt/TTXVN)

Việt Nam có tổng diện tích biển trên 1 triệu km², diện tích có khả năng nuôi biển lên tới hơn 500.000 ha, tương đương khoảng 50% diện tích vùng biển. Tuy nhiên, thực tế hiện nay tại các địa phương có biển cho thấy hoạt động nuôi biển hiện vẫn chủ yếu mang tính nhỏ lẻ, manh mún, chưa đạt được trình độ nuôi biển công nghiệp như nhiều quốc gia trên thế giới.

Trong khi đó, nếu thực hiện đồng bộ các giải pháp về thể chế, công nghệ, tổ chức sản xuất và nhân lực, Việt Nam hoàn toàn có thể đạt mục tiêu 9-10 triệu tấn sản lượng nuôi biển và 20 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu vào năm 2045.

Quy mô nhỏ, nuôi biển khó phát triển đúng tầm

Sở hữu hơn 1.000.000 km² vùng đặc quyền kinh tế, hơn 3.000 đảo và 3.260 km đường bờ biển, Việt Nam nằm trong nhóm quốc gia có nhiều vũng, vịnh kín gió thuận lợi nhất châu Á để phát triển nuôi biển công nghiệp.

Tuy vậy, theo đánh giá của Phó Giáo sư-Tiến sỹ Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam, những lợi thế này vẫn chưa được chuyển hóa thành năng lực sản xuất tương xứng. “Chúng ta có nguồn tài nguyên biển rất lớn nhưng phần ‘nước’ của đất nước vẫn chưa đóng góp đúng tầm vào tăng trưởng kinh tế. Nuôi biển còn manh mún, tự phát và thiếu nền tảng thể chế, công nghệ để phát triển bền vững,” ông Dũng nhấn mạnh.

Thực tế hiện nay cho thấy hoạt động nuôi biển dù diễn ra tại 21 tỉnh, thành phố, nhưng chủ yếu mới chỉ tập trung ở vùng ven bờ - nơi mật độ lồng bè dày và rủi ro môi trường ngày càng lớn, trong khi khu vực xa bờ sạch hơn và có tiềm năng phát triển quy mô lớn mới chỉ có 27 cơ sở được đầu tư.

Nguyên nhân chính được ông Dũng đề cập là do thiếu cơ chế giao khu vực biển dài hạn, khiến doanh nghiệp không dám đầu tư lồng công nghệ cao hay hạ tầng biển khơi với khoản kinh phí lớn lên đến hàng trăm tỷ đồng nếu chỉ được giao biển vài năm. Vì thế, tại nhiều địa phương còn phổ biến nuôi biển với lồng tre gỗ, thức ăn tươi và công nghệ thấp.

Theo ông Dũng, nếu giao biển vài năm, người dân chỉ dám dựng lồng tạm. Trong khi muốn có lồng công nghệ cao, muốn có tàu hậu cần và nhà máy chế biến, phải có cơ chế sử dụng biển ít nhất 30-50 năm. Đồng thời, cần ban hành hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia cho nuôi biển để thống nhất quản lý, hỗ trợ truy xuất nguồn gốc và tạo thuận lợi cho xuất khẩu.

Ông Dũng cũng cho rằng quy mô nhỏ lẻ khiến nuôi biển khó phát triển đúng tầm và dễ tổn thương trước ô nhiễm hay sự cố tảo độc. Ngoài ra, con giống cũng thiếu ổn định, phụ thuộc nhập khẩu. Do đó, nếu không sớm thay đổi phương thức tổ chức sản xuất và hoàn thiện thể chế, Việt Nam có thể bỏ lỡ cơ hội đưa nuôi biển trở thành một trụ cột quan trọng của kinh tế xanh.

Tại cuộc làm việc với Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam, trong ngày 16/12, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng cũng nhấn mạnh Việt Nam có tiềm năng, lợi thế lớn về nuôi biển. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy hoạt động nuôi biển vẫn chủ yếu mang tính nhỏ lẻ, manh mún, chưa đạt được trình độ nuôi biển công nghiệp như nhiều quốc gia trên thế giới.

 Mô hình nuôi biển của công ty cổ phần tập đoàn STP Group tại trại đảo Phất Cờ (Quảng Ninh). (Ảnh: PV/Vietnam+)

Mô hình nuôi biển của công ty cổ phần tập đoàn STP Group tại trại đảo Phất Cờ (Quảng Ninh). (Ảnh: PV/Vietnam+)

Vậy làm thế nào để nuôi biển phát triển một cách bài bản, công nghiệp, có tổ chức và bền vững? Bộ trưởng Trần Đức Thắng nêu vấn đề then chốt và nhấn mạnh: “Đây là việc bắt buộc phải làm. Nhưng cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước, cũng phải đặt câu hỏi ngược lại: Năng lực của doanh nghiệp đến đâu, doanh nghiệp có đủ khả năng và quyết tâm để làm hay không. Phải có sự song hành giữa Nhà nước và doanh nghiệp.”

Gỡ “nút thắt” để hình thành ngành kinh tế lớn

Đề cập giải pháp, Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam Nguyễn Hữu Dũng cho rằng việc hình thành các cụm công nghiệp nuôi biển là giải pháp đột phá để thay đổi phương thức tổ chức sản xuất. Trong đó, công nghệ được xem là động lực then chốt để nâng năng suất và bảo đảm phát triển bền vững.

Theo đó, ông Dũng đề xuất tập trung vào sáu nhóm công nghệ cốt lõi, bao gồm: Công nghệ sản xuất giống; lồng biển khơi và thiết bị nuôi; thức ăn công nghiệp; công nghệ thu hoạch, bảo quản và chế biến; công nghệ sinh học tận dụng phụ phẩm; công nghệ số. Những yếu tố này được kỳ vọng sẽ giúp giảm phát thải, giảm ô nhiễm từ thức ăn dư thừa, đảm bảo truy xuất nguồn gốc.

Tuy vậy, Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam cũng lưu ý ứng dụng công nghệ cao vào nuôi biển hiện vẫn gặp trở ngại lớn về chi phí. Vì vậy, chính sách hỗ trợ tài chính từ tín dụng xanh, vốn ưu đãi đến bảo hiểm rủi ro cần được triển khai mạnh mẽ hơn. Đặc biệt, cơ chế bảo hiểm chỉ số bão và bảo hiểm tài sản nuôi biển là yêu cầu cấp thiết để giảm rủi ro thiên tai.

Bên cạnh công nghệ, hoàn thiện thể chế được coi là điều kiện tiên quyết để thu hút đầu tư dài hạn. Do đó, ông Dũng đề xuất cấp “sổ xanh” - quyền sử dụng biển ổn định, dài hạn tương tự quyền sử dụng đất, cho người dân.

“Nếu chỉ được giao biển vài năm, người dân chỉ dám dựng lồng tạm. Muốn có lồng công nghệ cao, muốn có tàu hậu cần và nhà máy chế biến, phải có cơ chế sử dụng biển ít nhất 30-50 năm,” ông Dũng nhấn mạnh.

Ngoài ra, theo Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam, việc phát triển nhân lực là yêu cầu bức thiết. Việt Nam đang thiếu kỹ sư nuôi biển công nghiệp, thiếu kỹ thuật viên vận hành thiết bị tự động và thiếu cán bộ quản lý vùng nuôi được đào tạo bài bản. Việc thành lập các trung tâm đào tạo, tăng cường hợp tác giữa doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học sẽ là nền tảng để xây dựng đội ngũ đáp ứng nhu cầu của ngành trong tương lai.

“Nếu thực hiện đồng bộ các giải pháp về thể chế, công nghệ, tổ chức sản xuất và nhân lực, Việt Nam hoàn toàn có thể đạt mục tiêu 9-10 triệu tấn sản lượng nuôi biển và 20 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu vào năm 2045,” ông Dũng nói.

Về phía cơ quan quản lý, Bộ trưởng Trần Đức Thắng khẳng định hệ thống pháp luật hiện hành về cơ bản đã đầy đủ, song các chính sách đang phân tán ở nhiều văn bản khác nhau, gây khó khăn trong tổ chức thực hiện. Trước mắt, bộ sẽ tập trung hỗ trợ triển khai 3 dự án thí điểm (liên quan Đề án phát triển hệ thống cụm công nghiệp nuôi biển tại các tỉnh, thành ven biển) tại Quảng Ninh, Khánh Hòa, An Giang (đại diện cho ba vùng với điều kiện tự nhiên khác nhau) nhằm tạo cơ sở thực tiễn để nhân rộng trong thời gian tới.

Đối với chính sách ưu đãi, Bộ trưởng Trần Đức Thắng cho rằng pháp luật về đầu tư, pháp luật về thuế đối với nông nghiệp nói chung và thủy sản nói riêng hiện nay đã có mức ưu đãi rất cao. Dù vậy, vẫn cần giao Cục Thủy sản và Kiểm ngư rà soát toàn bộ các chính sách đang áp dụng, từ giao đất, cho thuê đất, thuê mặt biển, thuế, tín dụng, bảo hiểm đến các hình thức hỗ trợ khác; tổng hợp lại để làm rõ thực trạng triển khai, so sánh với các ngành, lĩnh vực khác và đánh giá xem có cần điều chỉnh, bổ sung hay không.

“Với chức năng quản lý nhà nước về biển, hải đảo, Bộ Nông nghiệp và Môi trường mong muốn phát triển nuôi biển trở thành một trong những ngành kinh tế biển quan trọng của đất nước và sẽ tích cực phối hợp với các bộ, ngành, địa phương để triển khai hiệu quả,” Bộ trưởng Trần Đức Thắng nói./.

(Vietnam+)

Nguồn VietnamPlus: https://www.vietnamplus.vn/nuoi-bien-cong-nghiep-loi-the-rat-lon-nhung-phat-trien-chua-tuong-xung-post1083490.vnp