Nuôi tôm thẻ nước lợ ở Đồng Tháp Mười: lợi bất cập hại về lâu dài?

Dù vẫn 'có ăn', nhưng tôm thẻ chân trắng nuôi ở vùng Đồng Tháp Mười đã dần bớt hấp dẫn khi môi trường bị ảnh hưởng, dịch bệnh tăng. Trong khi đó, hệ sinh thái ở vùng này đang bị biến đổi do chất độc từ nước nuôi tôm xả ra tích tụ lại.

Một trại tôm quy mô lớn ở vùng Đồng Tháp Mười. Ảnh: Trung Chánh

Một trại tôm quy mô lớn ở vùng Đồng Tháp Mười. Ảnh: Trung Chánh

Đồng Tháp Mười là vùng đất của các địa phương nằm giáp ranh ở ba tỉnh Tiền Giang, Long An và Đồng Tháp. Đây là vùng ngọt quanh năm, nhưng người dân ở khu vực này, nhất là ở huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An đã phát triển nuôi tôm thẻ chân trắng - loài thủy sản thích hợp ở vùng nước lợ.

Từ “sáu thắng, bốn thua” đến "năm thắng, năm thua"

Trao đổi với KTSG Online, ông Trần Văn Lâm, ngụ xã Tân Lập, huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An, người có 1,6 héc ta đất nuôi tôm (gồm 3 ao nuôi và 2 ao lắng), cho biết đã chuyển đổi từ đất lúa sang nuôi tôm thẻ chân trắng được hai năm (6 vụ nuôi).

Nuôi tôm ngày càng khó khăn hơn do môi trường xuống cấp, thời tiết biến động liên tục. “Mình phải tùy cơ ứng biến qua từng vụ, chứ không áp dụng công thức vụ trước sang vụ sau được”, ông Lâm nói và giải thích, phải nhìn mặt tôm, thời tiết để xử lý.

Trường hợp tôm nuôi khỏe mạnh, năng suất tốt lợi nhuận có thể đạt trên 100 triệu đồng/công (1.000m2), cao gấp 100 lần cây lúa. Thế nhưng, tỷ lệ nuôi thành công chỉ “sáu - bốn”, tức là nuôi 10 vụ thì chỉ sáu vụ thành công, có đến bốn vụ thất bại.

Ông Dương Hoàng Nhân, ngụ xã Tân Lập, huyện Mộc Hóa, cho KTSG Online biết vụ thu hoạch gần nhất, nuôi hai ao (mỗi ao 2.000m2) thì “một có ăn, một thất bại”. Như vậy tỷ lệ nuôi thành công có thể xem là chỉ "năm - năm". Trong đó, ao đạt thu được 6 tấn, bán giá 140.000 đồng/kg cho doanh thu 840 triệu đồng. Bù qua đắp lại, lợi nhuận hai ao chỉ hơn 100 triệu đồng, đủ tiền mua giống.

Qua nhiều năm phát triển nuôi tôm thẻ chân trắng, dịch bệnh tích lũy dần, trong khi môi trường, thời tiết không thuận lợi nên nuôi cũng ngày càng khó khăn hơn, theo ông Nhân.

Trong khi đó, ông Phạm Ngọc Bưởi, xã Tân Lập, huyện Mộc Hóa, cho biết nguồn nước được người dân nơi đây sử dụng nuôi tôm là từ giếng khoan. “Độ mặn lấy lên khoảng 3-4 phần ngàn trong mùa khô, còn mùa mưa khoảng 2 phần ngàn do nước bị loãng”, ông cho biết.

Trao đổi với KTSG Online, TS Dương Văn Ni, Chuyên gia đa dạng sinh học, giảng viên cao cấp Khoa môi trường và Tài nguyên thiên nhiên (Đại học Cần Thơ), cho biết những năm đầu, vùng Đồng Tháp Mười trúng tôm vì là vùng đất mới, mầm bệnh chưa tích lũy, trong khi người dân lấy nước mặn từ nguồn nước ngầm không bị ô nhiễm.

Thế nhưng, hiện khó khăn hơn vì mầm bệnh tích lũy nhiều hơn qua thời gian, trong khi tiêu thoát nước ở vùng này kém. Rõ ràng, tôm nuôi ngày càng khó khăn nên việc mở rộng diện tích đang có xu hướng chững lại so với những năm trước.

Theo báo cáo tình hình xử lý nuôi tôm thẻ chân trắng ở vùng Đồng Tháp Mười của Sở Nông nghiệp và Môi trường Long An, đến tháng 6-2025, diện tích nuôi ở các huyện, thị xã vùng Đồng Tháp Mười là 591,7 héc ta, với 362 hộ tham gia, diện tích và số hộ không đổi so với năm 2024.

Kênh 79 đi xuyên qua vùng nuôi tôm. Ảnh: Trung Chánh

Kênh 79 đi xuyên qua vùng nuôi tôm. Ảnh: Trung Chánh

Chất độc tích tụ từ nước nuôi tôm xả ra

Qua nhiều năm phát triển nuôi tôm thẻ chân trắng, môi trường ở khu vực này đã phần nào bị biến đổi. Ở những vùng khác, nước có thể lưu thông tốt theo con nước, giúp rửa trôi các chất độc hại. Thế nhưng, Đồng Tháp Mười là vùng trũng thấp của Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nên việc chất độc từ nước nuôi tôm xả ra tích tụ qua thời gian là không tránh khỏi.

Bởi lẽ, vùng này có đặc tính đất phèn nên phù sa không vào để bồi đắp được hay nói cách khác khi hạt phù sa lơ lửng từ thượng nguồn về đến ranh giới Đồng Tháp Mười đã bị phèn làm lắng xuống, không vào tiếp được.

Đối chiếu quy định của Luật đa dạng sinh học, phát triển nuôi tôm nước lợ tại vùng Đồng Tháp Mười có nguy cơ phá hủy hệ sinh thái tự nhiên, làm suy giảm đa dạng sinh học. Điều này, không chỉ làm suy thoái đất, ảnh hưởng lâu dài, mà còn gây chết hoặc khiến một số loài sinh vật nước ngọt di chuyển đi nơi khác, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh thái, đa dạng loài.

Theo TS Ni, Nghị quyết số 120/NQ - CP của Chính phủ về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu xác định Đồng Tháp Mười là vùng ngọt, chịu trách nhiệm an ninh lương thực. Do đó, việc phát triển sản xuất mặn trong vùng ngọt là sai về mặt sinh thái và quy định hiện hành. “Nếu phát triển lớn hơn sẽ biến vùng này thành vùng mặn, tức về mặt tổng thể đi ngược lại quy hoạch vùng định hướng đến năm 2050, trong khi về mặt môi trường, đa dạng sinh học cũng bị ảnh hưởng lớn”, ông cho biết.

Sâu xa hơn, Đồng Tháp Mười là vùng trũng, giúp cấp nước ngầm cho cả ĐBSCL, cho nên, hút nước ngầm lên nuôi tôm (nước ngầm có độ sâu trung bình 300 mét ở vùng này là nước mặn vì quá khứ hàng ngàn năm trước ở đây là biển) có khả năng sẽ biến vùng trũng này thành vùng mặn, khó tiêu thoát nước. Đó là chưa kể hệ thống đê bao chằng chịt, khả năng thoát mặn tự nhiên cho vùng này không có.

Đồng Tháp Mười đã mất hàng ngàn năm để rửa được lớp mặn ở phía trên trở thành lớp đất ngọt trồng cây. Do đó, việc đưa nước mặn lên lại có thể sẽ khiến vùng này bị mặn vĩnh viễn.

Từ thực trạng nêu trên, câu hỏi được đặt ra, sau con tôm thẻ chân trắng, Đồng Tháp Mười sẽ làm gì?. “Sau con tôm sẽ làm gì? Đất mặn trồng lúa không được, nuôi thủy sản cũng không, thì làm gì?”, ông Ni đặt câu hỏi.

Trung Chánh

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/nuoi-tom-the-nuoc-lo-o-dong-thap-muoi-loi-bat-cap-hai-ve-lau-dai/