Ở đây bán thứ khó sao chép: 'độ tin cậy'
Trong thế giới ván ép, nơi những sản phẩm gần như giống nhau, một doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu Việt Nam đã chọn bán thứ khó sao chép hơn, đó là độ tin cậy vào tiêu chuẩn và chất lượng từng sản phẩm. 'Nhà máy hợp chuẩn', theo họ, không chỉ nằm ở danh mục chứng nhận quốc tế treo trên tường mà ở những khoản đầu tư để chất lượng trở thành một hằng số.
Buổi sáng cuối mùa mưa ở khu công nghiệp Nam Tân Uyên (TPHCM), những tấm veneer mỏng như giấy chạy đều qua dàn lăn keo xếp lớp tự động, rồi biến mất trong chiếc máy ép 40 khe. Ở cuối chuyền, máy chà nhám Kikukawa nhả ra những tấm ván phẳng như gương, còn phòng lab ở nhà máy bên cạnh đang đo hàm lượng formaldehyde từng lô hàng. Tại xưởng tủ bếp, dây chuyền sơn Cefla vận hành kín, cánh cửa tủ chạy qua từng lớp sơn. Hệ thống hiển thị thời gian, tiêu chuẩn, kết quả kiểm tra.
Đội kỹ thuật đứng ở khu hoàn thiện, ráp thử từng chi tiết. “Với hàng xuất khẩu, khách ở nước ngoài không thể “mang tới bảo hành”, nên chỉ cần một lỗ khoan lệch nửa mi li mét cũng thành sự cố. Chúng tôi khóa chuẩn từ sơ đồ cắt, khoan, sơn đến ráp - để khi thùng hàng mở ra, mọi chi tiết khớp ngay”, ông Ngô Trọng Quyết, Giám đốc nhà máy tủ bếp Công ty cổ phần TEKCOM, nói mà không rời mắt khỏi thùng hàng đang lắp thử.

Nhà máy Bình Dương 2. Ảnh: TEKCOM
Trong thế giới ván ép (plywood), nơi những sản phẩm gần như giống nhau, TEKCOM chọn bán thứ khó sao chép hơn, đó là độ tin cậy vào tiêu chuẩn và chất lượng từng sản phẩm.
Từ hai container học phí đến tham vọng 100 triệu đô
Câu chuyện về TEKCOM bắt đầu bằng một thất bại. Năm 2007, hai người bạn Vũ Quang Huy và Hoàng Ích Tuân dốc toàn bộ vốn liếng kiếm được sau hai năm mở công ty - mỗi người 5.000 đô la Mỹ - để nhập hai container ván cốp pha Trung Quốc. Chất lượng kém khiến nhà thầu từ chối. Hai người ngồi nhìn container hàng không biết bán cho ai, ông Vũ Quang Huy, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc TEKCOM, nhớ lại.
Từ bài học ấy, họ chuyển sang thuê OEM - đặt hàng nhà máy Trung Quốc sản xuất theo yêu cầu. Khi xu hướng chuyển từ cốp pha thép sang ván ép phủ phim lan rộng, Tekcom mời gọi nhà thầu ở Việt Nam sử dụng, từ đó tạo dựng thị trường tiêu thụ. Giai đoạn 2009-2011, doanh nghiệp này chiếm tới 65% thị phần ván phủ phim trong nước. Nhưng quy mô tăng kéo theo lỗi chất lượng - hậu quả của việc phụ thuộc vào gia công ngoài.

Phòng Lab hóa tính. Ảnh: TEKCOM
“Chúng tôi quyết định tự chủ năng lực, tự chủ vận mệnh của mình”, ông Huy nói. Năm 2012, nhà máy đầu tiên của TEKCOM đi vào hoạt động, công suất năm là 12.000 mét khối. Khi Thổ Nhĩ Kỳ áp thuế chống bán phá giá với hàng Trung Quốc, họ tranh thủ “khoảng trống” ấy để xuất khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ. Đến năm 2015, TEKCOM xây Nhà máy Bình Dương 1, nâng công suất lên mười lần - 120.000 mét khối, mở thêm thị trường xuất khẩu qua Hàn Quốc, Trung Đông, rồi tiến vào châu Âu và Mỹ.

Công nhân thực hiện công đoạn chà nhám hoàn thiện trên băng tải. Ảnh: TEKCOM
Từ năm 2012-2018, TEKCOM tăng trưởng ổn định với ván ép cho xây dựng, nhưng như ông Huy thừa nhận, “mọi chu kỳ đều có điểm đỉnh”, và công ty buộc phải tìm động lực mới. Năm 2019, họ đầu tư Nhà máy Bình Dương 2, mở rộng từ ván ép cho công trình sang ván nội thất. Đúng lúc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung làm chuỗi cung ứng dịch chuyển từ Trung Quốc và mở ra cơ hội cho những “sản phẩm giá trị gia tăng cho ván ép” như tủ bếp lắp ghép. Nhà máy ban đầu được thiết kế “100% cho ván ép”, sau đó dành một nửa công suất cho tủ bếp. Trên khu đất khoảng 6 héc ta, dây chuyền vừa sản xuất ván ép nội thất, vừa hoàn thiện thân tủ và các thành phần tủ bếp trước khi đóng gói xuất khẩu.
Bước sang năm thứ 20, TEKCOM cố giải một bài toán đang khiến nhiều doanh nghiệp gỗ Việt Nam lo ngại - xuất khẩu trong kỷ nguyên rào cản thuế - phi thuế quan ngày càng gắt gao và chuỗi cung ứng biến động. Lời giải của họ là “nâng cấp mô hình” từ bán ván ép sang bán “gói tin cậy” với việc đảm bảo nguyên liệu gỗ - tự chủ keo - kiểm nghiệm - vận hành theo dữ liệu thời gian thực - đồng thiết kế sản phẩm với khách hàng và tuân thủ tiêu chuẩn ở từng thị trường. Mốc doanh thu năm 2025 ước khoảng 100 triệu đô la Mỹ là phép thử cho tham vọng ấy.
Giữ chất lượng ổn định như một hằng số
Trong số 1.217 sản phẩm được giao dịch năm 2023, ván ép xếp thứ 263 về giá trị thương mại toàn cầu, chiếm 0,068% tổng thương mại thế giới, theo dữ liệu từ OEC. Theo Chỉ số Độ phức tạp Sản phẩm (PCI), đây là sản phẩm có độ phức tạp xếp thứ 801 trong tổng số 1.044, với giá trị PCI là -0,79.
Thực tế, theo ông Huy, ngành gỗ gần như không còn nhiều phát minh mang tính đột phá, nên đổi mới đến từ những cải tiến nhỏ, liên tục hơn là các “bước nhảy” công nghệ. Chính chuỗi cải tiến này đã tạo nên khác biệt về năng suất và hiệu quả.

Kho hàng đạt chuẩn xuất xưởng.Ảnh: TEKCOM
Hai yếu tố cốt lõi với một tấm ván ép là yếu tố cơ tính - kết dính tốt, khỏe, bền, dùng lâu dài và yếu tố hóa tính - hàm lượng các chất trong sản phẩm trong ngưỡng cho phép. Ông Nguyễn Hữu Linh, Giám đốc Nhà máy và Kỹ thuật mảng ván, chia sẻ cái khó là xây dựng kỷ luật vận hành để đảm bảo các các yếu tố.
TEKCOM có ba cải tiến quan trọng là tự chủ keo - với xưởng xử lý VOCs đạt chuẩn môi trường, giúp ổn định độ kết dính; đầu tư máy chà tinh của Nhật Bản - duy trì dung sai ±0,15mm, tạo độ phẳng đồng đều; phòng lab đạt kiểm định bên thứ ba dùng kiểm tra cơ - hóa tính từng lô hàng, phát hiện sớm sai lệch.
Ngành gỗ gần như không còn nhiều phát minh mang tính đột phá, nên sự đổi mới đến từ những cải tiến nhỏ, liên tục hơn là các “bước nhảy” công nghệ. Chính chuỗi cải tiến này đã tạo nên khác biệt về năng suất và hiệu quả.
Ông Vũ Quang Huy mô tả mục tiêu “nhà máy hợp chuẩn” không chỉ nằm ở danh mục chứng nhận quốc tế treo trên tường mà ở những khoản đầu tư để chất lượng trở thành một hằng số. Một trong số đó là hệ thống siêu âm phát hiện lỗi bên trong tấm ván. Nếu mắt người “giỏi” nhất cũng chỉ “đọc” được sáu bề mặt, thì đầu dò siêu âm cho phép “nhìn xuyên” cấu trúc, kiểm tra độ bám dính giữa các lớp veneer, phát hiện sớm hiện tượng tách lớp - yếu tố cốt lõi tạo ra những giá trị bền vững, đảm bảo chất lượng chuẩn mực. Khi lớp kiểm soát vô hình này vận hành song song với quy trình ép - sấy - phủ, các lô hàng đi ra khỏi dây chuyền đạt cùng một tiêu chuẩn kỹ thuật, “luôn giống nhau hoàn toàn” giữa các mảng sản xuất.
Cả hệ thống vận hành của TEKCOM gắn liền dữ liệu - từ S&OP, ERP đến BI - cho phép ban điều hành “nhìn thấy” năng suất, lỗi, chi phí theo thời gian thực và dễ dàng đưa ra quyết định nhanh.
Rào cản mới - thuế, chuẩn mực và bài kiểm tra EUDR
Cú sốc năm 2025 là mức thuế 25% dự kiến áp lên mặt hàng tủ - kệ bếp vào Mỹ và nguy cơ điều tra chống bán phá giá. Ông Huy bình thản: “Tất cả mọi thứ đều phương án cho nó… Mỹ không có lợi thế sản xuất, họ vẫn phải nhập khẩu. Quan trọng là mình hiểu các quốc gia cạnh tranh đang khác mình chỗ nào”. Ở phía “phi thuế quan”, châu Âu siết EUDR (truy xuất và chống phá rừng), Ấn Độ yêu cầu BIS Marking, Morocco áp IMANOR. TEKCOM chủ động “hợp chuẩn” theo từng thị trường, coi đó là giấy thông hành tối thiểu suốt chuỗi hành trình sản phẩm.
“Đây là những điều mình không thay đổi được. Quan trọng là thích ứng thế nào”, ông Huy nói. Với khách hàng cấp 1 (tier-1), TEKCOM nhận “đồng thiết kế” để tối ưu hóa nguyên liệu, giá thành nhưng vẫn đáp ứng tiêu chuẩn, biến rào cản thành điểm khác biệt. Ở Morocco, doanh nghiệp cho biết họ là một trong những nhà máy plywood Việt Nam đầu tiên “hợp chuẩn IMANOR”.
Định kiến “plywood Việt Nam là hàng phổ thông, chất lượng không ổn định” ở những thị trường công ty lần đầu tiếp cận như Thổ Nhĩ Kỳ, Hàn Quốc khiến ông Huy… tự ái. TEKCOM chọn cách chứng minh bằng hành động. “Tùy theo tiêu chuẩn của từng thị trường, chúng tôi tập trung thực hiện, đến một ngày đối tác cảm nhận được rằng chúng tôi có tính cam kết, sản phẩm hợp chuẩn và quan tâm đến yếu tố bền vững - không chỉ qua tiêu chuẩn trên giấy mà còn qua kiểm định, quan sát trực tiếp của họ và cách thực hiện cam kết đồng hành cùng nhau”, ông nói.
Quyết định làm tủ bếp - “trái tim của căn nhà”, như Giám đốc Nhà máy mảng tủ bếp Ngô Trọng Quyết nói - không chỉ là đa dạng hóa. Nó buộc TEKCOM đẩy cao chuẩn từ nền ván (độ kết dính, dung sai) đến bề mặt (đồng nhất màu - độ bóng) và kết cấu (chịu ẩm, chịu nhiệt, vòng đời đóng - mở rất lớn).
TEKCOM không sở hữu rừng. Thay vào đó, ông Hoàng Ích Tuân, Giám đốc Phát triển kinh doanh, mô tả một chiến lược liên kết - bao tiêu với các đơn vị sở hữu rừng trồng (cao su ở Đông Nam bộ, Tây Nguyên; keo, bạch đàn ở miền Trung, miền Bắc).
“Hiện nay, mỗi năm doanh nghiệp dùng khoảng 400.000 tấn gỗ, 100% gỗ sản xuất plywood từ Việt Nam, chỉ lớp gỗ bóc để làm bề mặt đặc thù phải nhập khẩu, nhưng tỷ trọng không đáng kể, chỉ khoảng 4-5% tổng giá trị”, ông Hoàng Ích Tuân nói.
Câu hỏi vì sao TEKCOM chọn bản sắc gỗ Việt Nam - “gỗ đặc trưng” để cạnh tranh dài hạn - là cây cao su được ông Tuân lập luận: khi gỗ bạch dương của Nga rút khỏi một phần thị trường châu Âu và thương chiến dịch chuyển chuỗi cung ứng, cao su có thể thay thế bởi có chất lượng tương đồng - với điều kiện kiểm soát được truy xuất và chất lượng bề mặt.
“Chúng tôi đang xây dựng thương hiệu gỗ cao su Việt Nam để biến đổi từ sản phẩm thông dụng sang hàng hóa có sự khác biệt và sản phẩm có giá trị gia tăng”, nhà đồng sáng lập TEKCOM chia sẻ.
Hơn 80% lượng hàng của TEKCOM dành cho xuất khẩu. Họ đưa hàng đến hơn 50 quốc gia và chọn chiến lược khác nhau cho từng thị trường: ở châu Âu là những sản phẩm hợp chuẩn, hợp quy để gia tăng giá trị; tại Mỹ không dừng ở tấm ván mà đi vào sản xuất các cấu phần thiết bị gỗ; ở Ấn Độ dựa trên thương hiệu và mạng lưới đối tác để mở sâu kênh tới khách hàng trụ cột; còn ở ASEAN ưu tiên hàng phổ thông. Cách tiếp cận này giúp TEKCOM “đặt quân” đúng phân khúc, phù hợp nhu cầu từng thị trường và thế mạnh cốt lõi của mình.
Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/o-day-ban-thu-kho-sao-chep-do-tin-cay/











