Ổn định mức sinh: Nhìn từ gia đình nhỏ đến chính sách lớn
Quyết định sinh con, tưởng chừng cá nhân, lại gắn chặt với cơ cấu dân số, chất lượng nguồn nhân lực và tương lai của đất nước. Ổn định mức sinh là việc riêng của mỗi gia đình đồng thời cũng là trách nhiệm chung đối với sự phát triển bền vững của quốc gia.

Ảnh minh họa:123RF
Gia đình trẻ và những áp lực lựa chọn "sinh đủ con"
Trong căn hộ chung cư tại phường Văn Khê (Hà Nội), gia đình anh Phan Văn Duyệt (35 tuổi) và chị Phan Thị Huế (34 tuổi) luôn rộn ràng tiếng cười trẻ thơ. Con trai lớn 6 tuổi ríu rít chơi cùng em gái 7 tháng tuổi. Sự có mặt của hai đứa trẻ mang lại niềm vui và cũng là lựa chọn được cân nhắc kỹ lưỡng của đôi vợ chồng trẻ.
Chị Huế chia sẻ: "Ban đầu, chúng tôi chỉ định sinh một bé để dồn sức nuôi dạy cho tốt. Nhưng khi con lớn dần, thấy con lủi thủi một mình nên vợ chồng tôi quyết định sinh thêm". Suy nghĩ ấy vừa vì hạnh phúc riêng vừa vì "nghĩ rộng hơn" trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn già hóa dân số, nếu nhiều gia đình chỉ sinh một con, tương lai nguồn lao động sẽ chịu tác động.


Gia đình anh Phan Văn Duyệt - chị Phan Thị Huế
Anh Duyệt gọi quyết định sinh hai con là "sự chuẩn bị có tính toán" từ việc cân đối thu nhập, phân bổ thời gian chăm sóc con, học hỏi cách nuôi dạy khoa học. Anh không nói về những điều to tát, chỉ nhẹ nhàng chia sẻ gia đình muốn góp phần nhỏ bé để giữ ổn định dân số, một cách nói dung dị về trách nhiệm công dân trong câu chuyện tưởng thuần túy riêng tư.
Trái với lựa chọn của gia đình ở Hà Nội, anh Nguyễn Văn Hậu (32 tuổi) và chị Lê Thị Thanh (30 tuổi) ở Bắc Ninh - cặp vợ chồng công nhân khu công nghiệp - lại cân nhắc theo hướng khác. Sau 5 năm kết hôn, họ chọn dừng ở một con trai. Lý do không khó để hình dung, theo tâm sự của chị Thanh: "Vợ chồng tôi làm công nhân ở khu công nghiệp, thu nhập bấp bênh. Nuôi dạy con đòi hỏi nhiều chi phí, từ sữa, học hành đến y tế. Hơn nữa, ông bà hai bên cũng đều lớn tuổi, không giúp được nhiều. Nếu sinh thêm, chúng tôi sợ không kham nổi".
Trong những điều kiện như thế, "an toàn" là chỉ sinh một, dồn nguồn lực để nuôi dạy con thật tốt, đúng như điều anh Hậu bộc bạch: "Tôi hiểu Nhà nước khuyến khích sinh đủ hai con, nhưng hoàn cảnh kinh tế gia đình mới là yếu tố quyết định. Mình phải đảm bảo cho con có điều kiện học hành tốt, hơn là sinh nhiều mà nuôi không nổi".

Ảnh minh họa: Shutterstock
Hai lựa chọn của hai cặp vợ chồng phần nào phác nên bức tranh đa sắc của các gia đình trẻ: cùng đối diện bài toán thời gian, thu nhập, chỗ ở, dịch vụ trông trẻ, trường lớp,… nhưng cách "giải" khác nhau. Một bên ưu tiên bức tranh dài hạn về cơ cấu dân số, cảm giác "đủ đầy" của gia đình có anh có em, bên kia ưu tiên chiều sâu chất lượng nuôi dưỡng cho một đứa trẻ trong giới hạn tài chính và mạng lưới hỗ trợ. Điểm chung là cả hai đều suy nghĩ nhiều về tương lai con cái và xã hội. Những trăn trở ấy cho thấy, chính sách dân số sẽ chỉ thực sự có sức sống khi gặp được hoàn cảnh của từng gia đình, nơi những con chữ pháp lý phải "bắt tay" với thực tế đời sống.
Trở lại gia đình anh Phan Văn Duyệt - chị Phan Thị Huế, quyết định sinh đủ hai con còn đi kèm với một cam kết tự thân chính là học cách làm cha mẹ có chủ đích, giữ sự đồng thuận vợ chồng trong từng việc nhỏ. Cách họ nói về "tính toán" không phải câu chuyện tiền bạc thuần túy, mà là một triết lý sắp xếp cuộc sống với việc linh hoạt giờ giấc, chăm con, tiết kiệm hợp lý, ưu tiên những thứ cần cho sự phát triển của trẻ. Đó là "chính sách gia đình" và ở cấp độ nào đó, là phép cộng bình dị vào ổn định dân số quốc gia.
Với gia đình anh Nguyễn Văn Hậu - chị Lê Thị Thanh, lựa chọn một con lại mở ra con đường khác, đó là giảm áp lực tài chính để có thể dành nhiều thời gian hơn cho đứa trẻ, theo dõi sức khỏe, học hành sát sao hơn. Khi được hỏi về khả năng sinh thêm, chị Thanh vẫn để ngỏ: "Nếu việc làm, thu nhập của chúng tôi ổn định hơn, nếu áp lực chi phí giảm bớt, việc sinh thêm mới khả thi". Một câu nói đơn giản nhưng chạm đúng điểm cốt lõi rằng, các quyết định sinh con chịu ảnh hưởng trực tiếp từ môi trường kinh tế - xã hội, khi môi trường thuận lợi, lựa chọn đủ hai con có thể trở thành lựa chọn tự nhiên với nhiều gia đình.
Từ hai mái ấm nhỏ thôi, có thể thấy, việc ổn định mức sinh, suy cho cùng được quyết định trong từng bữa cơm gia đình, giữa những tính toán rất đời về thời gian, tiền bạc, sự hỗ trợ của ông bà,… Những thứ tưởng riêng ấy lại chính là "mắt xích" quan trọng trong bức tranh chung. Ở quy mô quốc gia, ta nói về "mức sinh thay thế", "cơ cấu dân số vàng", "già hóa",… Ở quy mô gia đình, đó là việc một đứa trẻ có anh có em, hay là một đứa trẻ nhận trọn mọi nguồn lực. Hai chiều ấy không loại trừ nhau, điều cần là một "nhịp cầu" giữa chính sách và đời sống, để các quyết định cá nhân bớt đơn độc và bớt rủi ro.
Chính sách dân số trong bối cảnh mới
Bức tranh dân số Việt Nam đang có nhiều biến chuyển. Sau nhiều năm duy trì mức sinh thay thế, từ năm 2020 đến nay xuất hiện xu thế mức sinh xuống thấp tại nhiều tỉnh, thành phố. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết phải điều chỉnh chính sách, không chỉ nhằm duy trì số lượng mà còn hướng tới nâng cao chất lượng dân số.

Ông Lê Thanh Dũng - Cục trưởng Cục Dân số, Bộ Y tế
Ông Lê Thanh Dũng, Cục trưởng Cục Dân số, Bộ Y tế, khẳng định: Dự thảo Luật Dân số được xây dựng theo hướng các cặp vợ chồng có quyền tự quyết định số con, thời gian sinh con, miễn sao phù hợp điều kiện sức khỏe, kinh tế và khả năng nuôi dạy.
Đây là bước chuyển lớn từ kế hoạch hóa gia đình sang chính sách dân số phát triển. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa sự "cởi mở" sẽ gây bùng nổ dân số. Thực tế, các gia đình sinh ít con sẽ bù trừ cho những gia đình sinh nhiều con hơn. Bộ Y tế đang đề xuất chính sách "Duy trì mức sinh thay thế", với mục tiêu điều chỉnh linh hoạt: khuyến sinh ở nơi mức sinh thấp, hạn chế sinh ở nơi mức sinh cao.
Quan trọng hơn, Dự thảo Luật Dân số không dừng ở chuyện quy mô mà đặt trọng tâm vào chất lượng. Các đề xuất như kéo dài nghỉ thai sản, hỗ trợ chi phí sinh, miễn học phí phổ thông, khám sức khỏe trước hôn nhân, tầm soát, chẩn đoán, điều trị trước sinh và sơ sinh,… đều nhằm đảm bảo mỗi trẻ em chào đời được chăm sóc tốt hơn.
Ông Lê Thanh Dũng nhấn mạnh, chính sách dân số phải gắn với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và phát triển bền vững. Theo ông, trọng tâm của công tác dân số không phải nằm ở con số đơn thuần, mà ở chất lượng và tương lai của quốc gia.
Góc nhìn từ cơ sở
Nếu chính sách là nền tảng định hướng thì cơ sở là nơi biến chủ trương thành hành động. Trong bức tranh chung về công tác dân số ở vùng nông thôn, miền núi, vai trò của cán bộ y tế cơ sở là vô cùng quan trọng. Chính họ là những người trực tiếp "gõ cửa từng nhà, gặp từng người" để vận động, tư vấn, nâng cao nhận thức của bà con về chăm sóc sức khỏe sinh sản, khám thai định kỳ và dinh dưỡng trong thai kỳ.

Chị Nông Thị Hợi, nữ hộ sinh Trạm Y tế xã Sơn Lâm (Nghệ An)
Chia sẻ về thực tế tại địa phương, chị Nông Thị Hợi, nữ hộ sinh Trạm Y tế xã Sơn Lâm (Nghệ An) thẳng thắn cho biết, nhiều thai phụ vẫn chưa coi trọng việc đi khám thai định kỳ. Họ thường chỉ nghĩ đơn giản rằng "đến kỳ thì sinh", chứ chưa hiểu tầm quan trọng của việc theo dõi sức khỏe thai kỳ. "Tôi thường phải gọi điện nhắc các thai phụ đến trạm thăm khám thai kỳ, nhưng nhiều người vẫn không đi, hoặc không đi đúng định kỳ. Vì thế, tôi lại phải gọi tư vấn hoặc trực tiếp đến tận nhà để hướng dẫn", chị Hợi kể.
Theo chị, kiến thức bà con còn hạn chế ở nhiều khía cạnh: cách chăm sóc thai kỳ theo từng giai đoạn, chế độ dinh dưỡng, vệ sinh thai phụ,… Cán bộ y tế đã cố gắng sử dụng cả tiếng dân tộc để truyền đạt dễ hiểu hơn, nhưng không ít gia đình vẫn coi nhẹ.
"Chúng tôi luôn nhắc nhở bà con rằng chăm sóc thai kỳ không phải việc riêng của người mẹ, mà cần cả gia đình cùng quan tâm. Có như vậy, mới đảm bảo cho mẹ tròn con vuông và tương lai của thế hệ mai sau", chị Hợi khẳng định.

Chị Lô Thị Bích, nữ hộ sinh của Trạm Y tế xã Sơn Lâm (Nghệ An)
Trong khi đó, chị Lô Thị Bích, nữ hộ sinh của Trạm Y tế xã Sơn Lâm, lại nhấn mạnh đến những khó khăn về kinh tế và đi lại của các gia đình. "Khó khăn lớn nhất là phương tiện và tiền bạc. Có thai phụ không biết đi xe, phải nhờ người khác chở. Có gia đình nói thẳng là không có tiền để đi sàng lọc trước sinh", chị Bích chia sẻ.
Dù vậy, chị Bích vẫn kiên trì gọi điện nhắc nhở thai phụ đến khám, tư vấn chế độ ăn uống hợp lý. Có người được hướng dẫn thì cố gắng mua thêm thịt, cá, sắt, canxi; nhưng cũng có gia đình chỉ "có gì ăn nấy" vì hoàn cảnh khó khăn.
Điều khiến chị Bích trăn trở là việc nhiều thai phụ ngại đi khám vì tâm lý e dè hoặc thiếu hiểu biết. Bởi vậy, vai trò của cán bộ y tế xã không dừng ở chuyên môn mà còn là người bạn đồng hành, động viên để bà con vượt qua rào cản tâm lý.
Cả chị Hợi và chị Bích đều khẳng định rằng nếu được tư vấn đầy đủ, tuân thủ khám thai định kỳ và chú ý dinh dưỡng, rủi ro trong thai kỳ sẽ giảm đi rất nhiều. Họ cũng mong muốn được tham gia thêm các khaá tập huấn ở cơ sở y tế lớn, cập nhật kiến thức mới, để phục vụ bà con tốt hơn.
Họ vẫn ngày ngày âm thầm gọi từng cuộc điện thoại, thậm chí đến từng nhà để gieo những hạt mầm của nhận thức. Họ chính là cầu nối để chính sách dân số đi vào đời sống, là chỗ dựa cho thai phụ ở những bản làng xa xôi.
Có thể nói, ổn định mức sinh, nâng cao chất lượng dân số chính là sự nối dài trách nhiệm - từ mỗi gia đình đến cộng đồng, từ chính sách vĩ mô đến từng cán bộ cơ sở.
Đó là lời nhắc nhở mạnh mẽ rằng dân số vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển. Duy trì mức sinh thay thế và nâng cao chất lượng dân số là để hôm nay ổn định và để mai sau đất nước có nguồn nhân lực dồi dào, khỏe mạnh, trí tuệ, góp phần giữ vững độc lập và phát triển bền vững.











