Ổn định thị trường xuất khẩu sầu riêng, bài toán chung của 3 nhà
Nhiều tồn tại, hạn chế trong xuất khẩu sầu riêng thời gian qua xuất phát từ chính nguyên nhân chủ quan của các tác nhân tham gia công tác quản lý, sản xuất, thu mua trong ngành hàng sầu riêng.
Để xuất khẩu sầu riêng bền vững, cần đảm bảo hài hòa lợi ích giữa nhà nông, nhà xuất khẩu và Nhà nước bằng mối liên kết bền chặt hơn, cũng như giải pháp cụ thể để ràng buộc, chế tài, đảm bảo việc thực thi cam kết.
Có chuyện “tham bát bỏ mâm” ?
Xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam đang đứng trước những thuận lợi chưa từng có, đặc biệt là thị trường Trung Quốc sau khi nghị định thư được ký kết. Tuy nhiên, thời gian qua có nhiều vấn đề phát sinh, sầu riêng Việt Nam tại thị trường Trung Quốc chịu sự cạnh tranh khốc liệt về giá và thương hiệu từ nhiều quốc gia khác trong khu vực, như Thái Lan, Malaysia và kể cả nước chủ nhà Trung Quốc.
Theo ông Vũ Phi Hổ, Chủ tịch HĐQT Công ty sầu riêng Tây Nguyên Sarita, hầu hết sản lượng sầu riêng xuất khẩu của Việt Nam đang dựa vào DN Trung Quốc. Thương lái Trung Quốc sang Việt Nam đặt cọc với nông dân và vựa thu mua dùng số tiền này để chốt mua, chốt bán sau đó đóng gói liên công để xuất khẩu. Chuyện bỏ cam kết, bẻ cọc dẫn tới tranh mua tranh bán cũng khởi nguồn từ đây.
“Năm ngoái DN chúng tôi hợp tác với một số HTX ở Krông Pắc. Thời điểm đó tại vùng này họ thông tin sẽ cung ứng đủ 30.000 tấn sầu riêng nên DN đã giúp đỡ người dân trên 3,7 tỷ đồng để hỗ trợ những khoản chi phí về phân bón và công chăm sóc. Thế nhưng kết quả cuối cùng DN nhận lại là việc phá cọc đến 80% - 90%, DN mất hoàn toàn số tiền đó vì chỉ cần chênh nhau 1.000 đồng là nông dân họ phá cọc”, ông Hổ ngao ngán.
Theo bà Ngô Tường Vy, CEO Công ty CP Tập đoàn Xuất nhập khẩu trái cây Chánh Thu, thời gian qua Việt Nam liên tục đề cập vấn đề mã số vùng trồng, quản lý chất lượng sầu riêng. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có quy định nào bắt buộc nông dân muốn bán được hàng phải đáp ứng các yêu cầu về truy xuất nguồn gốc. Đặc biệt là quản lý tiến độ thu hoạch, một trong những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng sầu riêng xuất khẩu.
Theo bà Vy, trong khi ở Thái Lan sản xuất sầu riêng được quản lý chặt chẽ, kể cả luật hóa hoạt động xuất nhập khẩu thì ở nước ta, ngành hàng sầu riêng phát triển giúp nông dân thu lợi rất lớn nhưng DN cũng “sập” rất nhiều do nông dân, thương lái không giữ đúng cam kết. Chính vì vậy, việc luật hóa bằng những quy định cụ thể đang trở nên cần thiết đối với một ngành hàng đặc thù như sầu riêng.
“Đã có rất nhiều DN mất hàng trăm tỷ đồng do bị hủy hợp đồng. Trong khi chỉ cần 1 hợp đồng không kịp thời gian hậu quả sẽ rất lớn. Quản lý ngành sầu riêng bằng luật đang là cái khó tại Việt Nam, vì vậy đề xuất Chính phủ có những cơ chế quản lý riêng để trong ngành hàng sầu riêng, từ đó giúp hoạt động xuất khẩu được bảo vệ và phát triển bền vững”,bà Vy đề xuất.
Luật hóa chuyện xuất khẩu sầu riêng
Theo Bộ NN&PTNT, lũy kế 3 tháng đầu năm 2024, kim ngạch xuất khẩu rau quả đạt 1,23 tỷ USD, tăng 25,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, sầu riêng đang là mặt hàng trái cây có giá trị xuất khẩu lớn nhất, ước tính kim ngạch 500 triệu USD trong 4 tháng đầu năm. Giá trị xuất khẩu sầu riêng sang Trung Quốc chiếm tới 98% tổng kim ngạch xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam. Theo số liệu của Cơ quan hải quan Trung Quốc, tuy số lượng tăng nhưng lại có xu hướng giảm về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái.
Một số ý kiến cho rằng, nguyên nhân là do trong quá trình xuất khẩu thời gian qua đã phát sinh nhiều vấn đề. Liên tục nhiều mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói bị cảnh báo, có trường hợp bị cảnh báo nhiều lần liên quan đến chất lượng sản phẩm.
Ông Huỳnh Tấn Đạt, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật, Bộ NN&PTNT cho biết, việc tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu cần tiếp tục được đẩy mạnh hơn trong thời gian tới. Nhất là tổ chức lại hoạt động chuỗi liên kết ngành hàng mang lại sự thuận lợi, hài hòa trong sản xuất - thu mua, đóng gói – xuất khẩu.
“Cục đang xây dựng các hệ thống truy xuất và cơ sở dữ liệu đối với những trường hợp không tuân thủ, hay vi phạm để áp dụng các biện pháp xử lý triệt để, bằng cách tạm dừng hoặc thu hồi những mã số theo đúng như yêu cầu của Nghị định thư đã ký kết”, ông Đạt nhấn mạnh.
Theo Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Hoàng Trung, việc có lô hàng bị cảnh báo không chỉ ảnh hưởng đến chính lô hàng đó, mà còn có nguy cơ đưa toàn bộ ngành hàng sầu riêng của Việt Nam bị quốc gia nhập khẩu xem xét áp dụng các biện pháp kiểm soát chặt chẽ hơn, thậm chí tạm dừng nhập khẩu. Điều này không chỉ tác động trực tiếp đến sản xuất, xuất khẩu mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến hình ảnh và uy tín của nông sản Việt Nam trên trường quốc tế.
“Cần nâng cao nhận thức, tư duy sản xuất với những cách làm ăn đàng hoàng chân chính, bảo đảm lợi ích được chia sẻ giữa người dân và DN. Khi lợi ích hài hòa sự liên kết mới chắc chắn hơn, không như hiện nay chưa có những chế tài cụ thể để xử lý. Bộ NN&PTNT sẽ đề xuất, tham mưu Chính phủ lồng ghép vào những cụm văn bản quy phạm pháp luật để hạn chế những tình trạng vi phạm trong thời gian tới”, ông Trung khẳng định.
Hiện nước ta có 708 mã số vùng trồng và 168 mã số cơ sở đóng gói sầu riêng tươi được cấp. Để phát triển bền vững ngành hàng sầu riêng, cần nhất là duy trì tốt về chất lượng, sự liên kết bền vững trong khâu tiêu thụ. Để làm được điều đó, tất nhiên cũng cần có những ràng buộc, chế tài đủ mạnh, đảm bảo cam kết phải được thực thi.