Ông Hồ Anh Dũng, Phó chủ tịch Hiệp hội Hoa Đà Lạt: Xây dựng thương hiệu để nghề trồng hoa Việt Nam vươn ra thế giới

Ông Hồ Anh Dũng

Ông Hồ Anh Dũng

Việt Nam là nước nông nghiệp, trong đó nghề trồng hoa có nhiều tiềm năng để phát triển. Dân số 100 triệu người với mức sống ngày càng tăng cao là điều kiện để ngành trồng hoa vươn lên, nắm bắt nhu cầu của thị trường để giữ thị phần ở nội địa và mở rộng xuất khẩu.

Để vươn lên, trở thành quốc gia có vị thế trên bản đồ xuất khẩu hoa tươi của thế giới thì đòi hỏi ngành hoa Việt Nam phải thay đổi tư duy sản xuất, gia tăng liên kết, tạo sức mạnh tập thể. Xung quanh vấn đề này, Báo Đồng Nai cuối tuần có cuộc trao đổi với ông Hồ Anh Dũng, Phó chủ tịch Hiệp hội Hoa Đà Lạt, nơi có vùng trồng hoa tươi lớn nhất Việt Nam.

Phấn đấu trở thành trung tâm sản xuất hoa tươi hàng đầu Ðông Nam Á

Thành phố Đà Lạt nói riêng, tỉnh Lâm Đồng nói chung được coi là “thành phố ngàn hoa”, vùng trồng hoa lớn nhất Việt Nam. Quy mô và giá trị của nghề trồng hoa ở Đà Lạt ra sao, thưa ông?

- Những năm trở lại đây, ngành trồng hoa, cây cảnh, lá trang trí tại Đà Lạt đã có bước phát triển mạnh mẽ, tạo ra nhiều vùng chuyên canh lớn, sản phẩm chất lượng, năng suất cao, đáp ứng nhu cầu của người dân trong và ngoài nước. Đây là ngành công nghiệp “không khói” đem lại lợi nhuận cho người nông dân.

Lâm Đồng thực sự đã trở thành trung tâm sản xuất hoa lớn nhất của cả nước (sản xuất 50% sản lượng hoa, chiếm 40% diện tích trồng hoa cả nước). Diện tích trồng hoa ở đây hiện gần 11 ngàn hécta; trong đó hơn 50% diện tích được ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao dùng nhà màng, nhà kính. Quy mô sản xuất của hoa Đà Lạt lên tới 4,4 tỷ cành hoa/năm; trong đó xuất khẩu cành hoa, lá, ngọn, cây giống, trị giá gần 100 triệu USD.

Riêng đối với xuất khẩu chiếm 11,2% sản lượng hoa Lâm Đồng. Xuất khẩu gồm 2 hạng mục chính là giống cấy mô (gần 37 triệu cây) và hoa cúc (gần 423 triệu cành), ngoài ra còn có hoa cẩm chướng (gần 7 triệu cành), hoa hồng (hơn 1,7 triệu cành), các loại hoa khác (hơn 10 triệu cành)...

Ông vừa nói là khoảng 1/2 diện tích trồng hoa ở đây được ứng dụng công nghệ cao, cụ thể ra sao?

- Với mức tăng trưởng bình quân hàng năm 10% về diện tích trồng và 15% về sản lượng hoa, ngành trồng hoa của Lâm Đồng vẫn đang phát triển và có thế mạnh lớn so với các khu vực khác trong cả nước. Sản xuất hoa ứng dụng công nghệ cao tại Lâm Đồng được đẩy mạnh với việc sử dụng nhà kính hiện đại, điều khiển tự động, công nghệ IoT cảm biến, công nghệ thông minh quản lý trang trại… Hiện có gần 3 ngàn hécta nhà kính, nhà lưới để cho ra các sản phẩm hoa đạt chất lượng tốt.

Ứng dụng công nghệ cao mang lại thu nhập tốt hơn cho người trồng và ngành nông nghiệp nói chung. Thu nhập bình quân của nông dân trồng hoa khoảng 1 tỷ đồng/hécta/năm trong khi thu nhập trồng hoa công nghệ cao trong nhà kính lên tới 3 tỷ đồng/hécta/năm. Điều này rất đáng để triển khai thực hiện.

Tiềm năng phát triển rất lớn, vậy trong tương lai gần, địa phương đã có kế hoạch tiếp tục phát triển nghề trồng hoa trở thành ngành kinh tế mạnh như thế nào, thưa ông?

- Tỉnh Lâm Đồng phấn đấu đến năm 2030, ngành hoa đạt sản lượng khoảng 5,4 tỷ cành và 0,5 tỷ chậu hoa các loại. Trong đó, hiện đại hóa khâu sản xuất hoa, sử dụng giống mới đạt trên 3 ngàn hécta gieo trồng hàng năm (26% tổng diện tích canh tác hoa); tỷ lệ diện tích hoa từ các giống mới có bản quyền đạt 35-40% phù hợp với các quy định để phát triển thị trường xuất khẩu.

Tỉnh phấn đấu từ năm 2030, hàng năm sản xuất hơn 120 triệu cây giống/năm, tỷ lệ hoa xuất khẩu chiếm 20% sản lượng, kim ngạch đạt hơn 200 triệu USD.

Sản xuất hữu cơ, tuần hoàn là xu hướng chung của thế giới, không chỉ với nông sản, thực phẩm mà còn bao gồm cả hoa. Đây là yếu tố đặc biệt quan trọng để nâng cao chất lượng, định hình thương hiệu hoa Việt Nam trên thị trường hoa tươi quốc tế.

Tái cấu trúc ngành hoa, tăng cường ứng dụng công nghệ hiện đại và chuyển đổi số là những giải pháp quan trọng của địa phương. Điều này nhằm giúp đưa thương hiệu “Hoa Đà Lạt” vươn xa, trở thành trung tâm sản xuất hoa tươi hàng đầu khu vực Đông Nam Á.

Muốn vươn xa, phải xây dựng thương hiệu cho hoa Việt Nam

Xét một cách tổng quan, ông đánh giá thế nào về tình hình phát triển của ngành trồng hoa và thị trường hoa tươi Việt Nam hiện nay?

- Thị trường hoa tươi Việt Nam hiện có quy mô đáng kể và tăng trưởng ổn định qua các năm gần đây nhờ nhu cầu tiêu dùng nội địa và doanh thu từ xuất khẩu. Nhìn chung, thị trường hoa tươi Việt Nam khá phân mảnh với rất nhiều người trồng và cửa hàng nhỏ lẻ. Tuy nhiên, sự dẫn dắt của một số doanh nghiệp lớn ứng dụng công nghệ cao đang nâng tầm chất lượng và sản lượng hoa nội địa. Đối với xuất khẩu, Việt Nam có lợi thế khí hậu đa dạng giúp trồng được nhiều loài hoa quanh năm, cộng thêm giá nhân công cạnh tranh.

Nếu giải quyết tốt vấn đề chất lượng và ổn định nguồn cung, hoa tươi Việt Nam có cơ hội mở rộng thị phần tại các nước trong khu vực và vươn ra các thị trường mới.

Trồng hoa công nghệ cao trong nhà màng mang lại thu nhập lớn cho người đầu tư. Ảnh: Chi An Flower

Trồng hoa công nghệ cao trong nhà màng mang lại thu nhập lớn cho người đầu tư. Ảnh: Chi An Flower

Nghề trồng hoa, xuất khẩu hoa của Việt Nam khi vươn ra thế giới có gặp phải rào cản nào?

- Bên cạnh những lợi thế, ngành hoa Việt Nam cũng đang đối mặt với không ít khó khăn. Có thể kể đến như: quy mô của các trang trại so với nhiều quốc gia còn khiêm tốn; giá cả sản phẩm hoa cũng không ổn định, có những thời điểm thấp hơn giá thành sản xuất, dẫn đến việc nhiều nông dân phải chuyển đổi sang giống hoa khác mà chưa tìm được mô hình hiệu quả và bền vững. Ngoài ra, ngành trồng hoa cũng đang phải chịu sự cạnh tranh khốc liệt từ các sản phẩm hoa ngoại nhập.

Việt Nam cần thay đổi tư duy tổ chức sản xuất, đa dạng chủng loại hoa khác nhau, ưu tiên chất lượng thay vì số lượng. Ngoài ra, một vấn đề đáng lưu tâm hiện nay là nguồn giống, xuất khẩu hoa từ giống cấy mô sẽ có giá trị cao hơn. Do đó, chúng ta cần quy hoạch khu vực sản xuất cấy mô mang tính quốc tế, từ đó mới đủ cơ sở hạ tầng để triển khai quy hoạch trồng hoa. Ngành nuôi cấy mô là ngành đầu tiên của chuỗi sản xuất vì tạo ra cây giống, nó bổ sung hai yếu tố vừa xuất khẩu, vừa nâng cao năng lực nông nghiệp nội địa.

Đà Lạt (Lâm Đồng) cùng các vùng trồng hoa khác ở Việt Nam nên chăng cần xây dựng chuỗi liên kết trong ngành và hợp tác lẫn nhau. Quan điểm của ông về vấn đề này ra sao?

- Ngoài Đà Lạt thì Việt Nam cũng có các vùng trồng lớn khác ở Tây Nam Bộ và các tỉnh phía Bắc. Liên kết, hỗ trợ nhau trong việc xây dựng thương hiệu hoa chung của quốc gia là rất cần thiết. Nhưng ở đây cần phải chỉ rõ lợi thế của từng địa phương, mỗi vùng có khí hậu, thổ nhưỡng khác nhau nên cần lựa chọn lợi thế lớn nhất của mình để phát triển. Các địa phương, vùng trồng cần có sự hợp tác, hỗ trợ nhau, dựa trên thế mạnh từng vùng để phát triển thống nhất, vừa tránh cạnh tranh nội bộ, lại vừa tạo được sức mạnh, nội lực.

Câu chuyện liên kết không chỉ ở các vùng trồng hoa với nhau mà còn là sự kết nối, hỗ trợ qua lại của các bên nhà nước, doanh nghiệp, người trồng hoa. Phải thay đổi tư duy để hướng đến sản xuất hoa theo quy chuẩn, đạt các chứng chỉ quốc tế, phát triển bền vững thì mới nâng cao được thương hiệu, đưa nghề trồng hoa vươn lên, trước mắt là xuất khẩu nhiều qua các thị trường lớn như: Nhật Bản, Hàn Quốc để tạo đà cho giai đoạn sau.

Xin cảm ơn ông!

Vương Thế (thực hiện)

Nguồn Đồng Nai: https://baodongnai.com.vn/dong-nai-cuoi-tuan/202503/ong-ho-anh-dung-pho-chu-tich-hiep-hoi-hoa-da-lat-xay-dung-thuong-hieu-de-nghe-trong-hoa-viet-nam-vuon-ra-the-gioi-6321a3e/