PGS.TS Đặng Thị Mỹ Dung: Chinh phục công nghệ in phun nano Việt Nam

PGS.TS Đặng Thị Mỹ Dung vừa vinh dự là một trong hai cá nhân được trao Giải thưởng Kovalevskaia 2024 với những đóng góp quan trọng trong nghiên cứu và ứng dụng công nghệ in phun nano tại Việt Nam.

PGS.TS Đặng Thị Mỹ Dung, Phó Viện trưởng Viện Công nghệ Nano (INT) - Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh vừa vinh dự là một trong hai cá nhân được trao Giải thưởng Kovalevskaia 2024 - giải thưởng vinh danh các nhà khoa học nữ.

 PGS.TS Đặng Thị Mỹ Dung tại lễ trao giải. Ảnh: VNUHCM.

PGS.TS Đặng Thị Mỹ Dung tại lễ trao giải. Ảnh: VNUHCM.

PGS.TS Đặng Thị Mỹ Dung đã ghi dấu ấn của mình với những đóng góp quan trọng trong nghiên cứu và ứng dụng công nghệ in phun nano tại Việt Nam. Với vai trò Phó Viện trưởng Viện Công nghệ Nano, Đại học Quốc gia TP.HCM, chị không ngừng nỗ lực đưa các nghiên cứu từ phòng thí nghiệm ra ứng dụng thực tiễn, góp phần nâng cao vị thế của khoa học nước nhà trên bản đồ thế giới.

Nỗ lực chinh phục công nghệ mới, khó

Năm 2009, PGS.TS Đặng Thị Mỹ Dung được tiếp cận và nghiên cứu công nghệ in phun dưới sự hướng dẫn của một người thầy quốc tịch Pháp. Vào thời điểm này, đây là lĩnh vực rất mới tại Việt Nam, các tài liệu trong nước đến các thiết bị phục vụ thí nghiệm đều rất ít ỏi. Tuy nhiên, nhận thấy đây là công nghệ có tính ứng dụng thực tiễn rất cao nên bà vẫn quyết tâm theo đuổi. Để thực hiện đam mê của mình, Phó giáo sư Đặng Thị Mỹ Dung đã phải sang Pháp, Nhật để học hỏi kinh nghiệm, tiếp cận công nghệ.

Với những nỗ lực, dần dần, bà đã chủ trì nhiều đề tài cấp Nhà nước và Đại học Quốc gia TP HCM, từng bước mở rộng và hoàn thiện công nghệ in phun cho đến ngày nay. Đặc biệt, PGS.TS Đặng Thị Mỹ Dung tập trung vào nghiên cứu chế tạo mực in phun nano và phát triển các cảm biến tiên tiến như cảm biến sinh học, cảm biến môi trường – những sản phẩm có tiềm năng lớn trong việc giải quyết các vấn đề thực tiễn, đặc biệt là tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.

PGS.TS Đặng Thị Mỹ Dung đã có nhiều dấu ấn trong lĩnh vực in phun.

PGS.TS Đặng Thị Mỹ Dung đã có nhiều dấu ấn trong lĩnh vực in phun.

PGS.TS Đặng Thị Mỹ Dung cho hay, ưu điểm nổi bật của công nghệ in phun là không cần dùng mặt nạ "mask" (tiết kiệm vì "mask" rất đắt tiền), một máy tính sẽ điều khiển in từng chấm một dựa trên hình ảnh đã thiết kế. Quy trình đơn giản hơn, sử dụng rất ít nguyên vật liệu, hóa chất (chỉ vào khoảng 10-20% so với phương pháp quang khắc) nên giá thành chế tạo linh kiện có thể giảm đáng kể. Phương pháp in phun giúp giảm khoảng 50% giá thành chế tạo vi linh kiện so với các sản phẩm được sản xuất theo phương pháp truyền thống (quang khắc) có mặt trên thị trường.

Đây là lý do quan trọng giúp cho công nghệ in phun có thể ứng dụng trong phòng thí nghiệm để in màng mỏng lên các loại đế khác nhau, đặc biệt là đế nhựa hay đế giấy thì khó có thể thực hiện bằng các phương pháp khác.

Trải qua 15 năm hoạt động khoa học, PGS.TS Đặng Thị Mỹ Dung đã công bố 60 bài báo trên các tạp chí quốc tế uy tín, trong đó có 17 bài là công trình chính của chị. Bà cũng là chủ nhiệm và hoàn thành 3 đề tài cấp Quốc gia, 2 đề tài cấp Đại học Quốc gia TP.HCM và 1 đề tài cấp Viện. Bên cạnh đó, chị đã tham gia thực hiện và hoàn thành 3 dự án quốc tế, 3 đề tài cấp Quốc gia, 1 đề tài cấp tỉnh, 1 đề tài NAFOSTED và 3 đề tài cấp Đại học Quốc gia TP.HCM. Không chỉ dừng lại ở nghiên cứu cơ bản, bà còn chú trọng vào tính ứng dụng của khoa học. Bà đã được cấp 3 bằng độc quyền sáng chế, 2 bằng độc quyền giải pháp hữu ích và 5 bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp. Đặc biệt, bà đã chủ trì và tham gia phát triển 4 sản phẩm khoa học công nghệ có tính ứng dụng cao, đáp ứng nhu cầu thực tiễn của xã hội, trong đó có mực in phun nano bạc, cảm biến sinh học và cảm biến môi trường ứng dụng tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.

Kỳ vọng cơ chế hỗ trợ thiết thực hơn cho các nhà khoa học

PGS.TS Đặng Thị Mỹ Dung nhấn mạnh, nghiên cứu khoa học là quá trình khám phá cái mới, luôn tiềm ẩn rủi ro, đòi hỏi nguồn kinh phí đáng kể và sự kiên trì bền bỉ. Hầu hết các đề tài của bà đều phải trải qua nhiều lần thử nghiệm mới có thể tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh. Có những sản phẩm phải làm đi làm lại trong một năm, thậm chí có đề tài kéo dài đến hai năm. Tuy nhiên, bà không hề nản lỏng.

“Mỗi lần thất bại là một bước tiến gần hơn đến thành công. Tuy nhiên, vì nghiên cứu luôn có yếu tố bất ngờ, nên rất khó để dự toán chính xác ngay từ ban đầu, chi phí phát sinh là điều không thể tránh khỏi”, bà chia sẻ.

Ngoài ra, theo PGS.TS Đặng Thị Mỹ Dung, một rào cản lớn nữa đối với nhà khoa học, đó là họ thường tập trung chuyên môn mà ít có kinh nghiệm về các thủ tục hành chính, trong khi để triển khai một đề tài nghiên cứu phải thực hiện nhiều thủ tục như đấu thầu, mua sắm nguyên vật liệu… Ngay cả khi sản phẩm nghiên cứu có giá trị ứng dụng cao, việc thương mại hóa vẫn gặp nhiều khó khăn do bản quyền thuộc về Nhà nước – đơn vị tài trợ kinh phí nghiên cứu.

Sự kết nối giữa nhà khoa học và doanh nghiệp là yếu tố then chốt, bởi các nghiên cứu khoa học chủ yếu được thực hiện trong phòng thí nghiệm, còn doanh nghiệp mới là đơn vị đưa sản phẩm ra thị trường. Tuy nhiên, do vướng mắc về thủ tục pháp lý, cả nhà khoa học lẫn doanh nghiệp đều ít mặn mà với việc hợp tác, dẫn đến tình trạng lãng phí nguồn lực.

Từ thực tế nghiên cứu, PGS.TS Đặng Thị Mỹ Dung đánh giá cao Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị khi tạo ra cơ chế thông thoáng hơn cho hoạt động nghiên cứu và thương mại hóa sản phẩm khoa học. Theo bà, việc chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu là điều cần thiết để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, đồng thời chính sách này cũng mở ra nhiều cơ hội phát triển mạnh mẽ cho khoa học công nghệ.

PGS.TS Đặng Thị Mỹ Dung kỳ vọng Nghị quyết 57 sẽ sớm được triển khai vào thực tế, mở ra cơ chế hỗ trợ thiết thực hơn cho các nhà nghiên cứu. Điều quan trọng nhất là các nhà khoa học được miễn thuế thu nhập cá nhân, tiếp cận thuận lợi hơn với các nguồn lực phục vụ nghiên cứu, đồng thời có chính sách rõ ràng để sản phẩm khoa học được ứng dụng thực tiễn một cách hiệu quả hơn.

Theo PGS.TS Đặng Thị Mỹ Dung, quyền thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học nên được trao cho các cơ quan, tổ chức Nhà nước trực tiếp quản lý đề tài. Những đơn vị này có sự theo sát chặt chẽ và hiểu rõ giá trị ứng dụng thực tiễn của công trình. Việc thương mại hóa thành công sẽ giúp các tổ chức này tái đầu tư vào hoạt động nghiên cứu, tạo động lực cho các nhà khoa học, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của khoa học công nghệ. Điều này cũng góp phần hạn chế tình trạng lãng phí tài nguyên khoa học, khi nhiều công trình có tiềm năng nhưng lại bị xếp xó, không được đưa vào ứng dụng thực tế.

Ngoài công tác nghiên cứu, Phó giáo sư Đặng Thị Mỹ Dung còn tích cực tham gia công tác đào tạo, hướng dẫn nhiều sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh, đồng chủ biên quyển sách chuyên khảo “Công nghệ in phun, mực in phun nano dẫn điện và ứng dụng trong vi điện tử” phục vụ cho đào tạo đại học và sau đại học. Ngoài ra, chị còn đảm nhiệm vai trò ban tổ chức chuỗi Hội nghị Quốc tế về Công nghệ Nano và Ứng dụng được đồng tổ chức bởi Viện Công nghệ Nano và CEA-LETI-MINATEC, Cộng hòa Pháp diễn ra 2 năm một lần (vào các năm lẻ), bắt đầu từ năm 2007.

Mời quý độc giả xem video: 7 Nhà Khoa Học Lỗi Lạc, Vĩ Đại Nhất Trong Lịch Sử Loài Người.

Mai Loan

Nguồn Tri Thức & Cuộc Sống: https://kienthuc.net.vn/tri-thuc-viet-toan-cau/pgsts-dang-thi-my-dung-chinh-phuc-cong-nghe-in-phun-nano-viet-nam-2089205.html