Phải bảo đảm khả năng cân đối nguồn vốn đầu tư công
Tiếp tục Chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội Khóa XIV, chiều 20/10, Quốc hội nghe báo cáo về tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020, dự kiến kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025. Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển điều hành nội dung làm việc.
Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020; dự kiến kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, căn cứ các Nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ đã giao kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 cho các bộ, cơ quan trung ương, địa phương và điều chỉnh theo Nghị quyết số 71/2018/QH14 ngày 12 tháng 11 năm 2018. Đồng thời, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều giải pháp quyết liệt yêu cầu các bộ, cơ quan trung ương và địa phương nghiêm túc triển khai thực hiện. Các bộ, cơ quan trung ương và địa phương đã tích cực triển khai các Nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 thuộc phạm vi quản lý.
Hình thành khung khổ pháp luật tương đối đồng bộ, thống nhất quản lý đầu tư công
Về kết quả đạt được, Bộ trưởng cho biết, đã hình thành khung khổ pháp luật tương đối đồng bộ, thống nhất quản lý đầu tư công; Thanh toán số nợ đọng xây dựng cơ bản đã được tổng hợp trong kế hoạch đầu tư trung hạn; Hiệu quả đầu tư công đã từng bước cải thiện, đầu tư tập trung, số dự án khởi công mới từng năm trong giai đoạn 2016-2020 giảm dần; Đầu tư công đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững; Định hướng phân bổ, quản lý và sử dụng vốn đầu tư công từ nguồn ngân sách nhà nước cho các vùng miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, vùng sâu, vùng xa, khu vực thường xuyên bị ảnh hưởng thiên tai, biến đổi khí hậu và thực hiện các nhiệm vụ, chính sách xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển bền vững.
Bên cạnh những kết quả đạt được, Bộ trưởng cũng chỉ ra một số tồn tại, hạn chế như: cơ cấu lại đầu tư chưa gắn với cơ cấu lại tài chính ngân sách, vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương chưa được phát huy. Chi đầu tư trung ương thấp hơn chi đầu tư địa phương ảnh hưởng rất lớn đến kết quả thực hiện kế hoạch đầu tư công trung hạn; nhiều nhiệm vụ chi chưa cân đối được nguồn vốn để giải quyết dứt điểm trong giai đoạn 2016-2020. Thu hút nguồn lực từ khu vực tư nhân và đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư vào khu vực công đã có chuyển biến tích cực nhưng chưa đạt yêu cầu đề ra. Chất lượng quy định quản lý đầu tư công còn bất cập, đặc biệt ở khâu lựa chọn, đánh giá hiệu quả dự án. Bên cạnh đó, việc giải ngân vốn kế hoạch đầu tư công mặc dù đã chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn chậm so với yêu cầu. Tiến độ của một số dự án trọng điểm còn chậm. Chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa chi đầu tư và chi thường xuyên. Tình trạng lãng phí, thất thoát, chất lượng công trình thấp trong đầu tư và xây dựng chưa được xử lý triệt để.
Về dự kiến kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 60 Luật Đầu tư công, Chính phủ trình Quốc hội kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn sau để Quốc hội cho ý kiến về các nội dung theo quy định. Tuy nhiên, Chính phủ làm rõ 02 nội dung còn thiếu so với quy định tại Điều 49 Luật Đầu tư công là: Chưa triển khai phân bổ được tổng mức vốn ngân sách trung ương chi tiết theo từng ngành, lĩnh vực, dự kiến mức phân bổ cho từng Bộ, cơ quan trung ương và mức vốn bổ sung có mục tiêu từ ngân sách trung ương cho ngân sách từng địa phương. Chưa xây dựng được danh mục dự án mới và mức vốn bố trí cụ thể cho từng dự án trong kế hoạch đầu tư công trung hạn.
Theo Bộ trưởng, nguyên nhân chủ yếu là do năm 2020 là năm đầu thực hiện Luật Đầu tư công số 39/2019/QH14 nên chưa xây dựng được số kiểm tra như quy định của Luật. Mặt khác, do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, chúng ta đã triển khai các giải pháp giãn, hoãn, giảm thuế suất hỗ trợ doanh nghiệp, tác động đến nguồn thu nên khó khăn trong việc dự báo, xác định khả năng cân đối chi ngân sách nhà nước cho chi đầu tư phát triển trong giai đoạn 2021-2025. Đến giữa tháng 9 năm 2020, Chính phủ mới xác định được dự kiến khả năng cân đối ngân sách nhà nước cho chi đầu tư trong giai đoạn 2021-2025 là 2.750 nghìn tỷ đồng. Hiện nay, Chính phủ đang chỉ đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư khẩn trương phối hợp với các bộ, cơ quan trung ương và địa phương tổng hợp, rà soát nhu cầu, trên cơ sở đó tham mưu báo cáo Chính phủ dự kiến kế hoạch đầu tư trung hạn giai đoạn 2021-2025 cho từng bộ, cơ quan trung ương và địa phương để trình Quốc hội khóa XV.
Về dự kiến kết quả đạt được kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng chỉ ra rằng, dự kiến sẽ bố trí đủ vốn cho Chương trình mục tiêu quốc gia và dự án quan trọng quốc gia; vốn đối ứng các Chương trình, dự án ODA, bố trí vốn hoàn thành nhiều dự án thuộc lĩnh vực giao thông, thủy lợi, y tế có ý nghĩa lớn đến phát triển kinh tế - xã hội của các ngành, các vùng miền và cả nước, ưu tiên đầu tư để thực hiện các dự án lớn phục vụ nhiệm vụ cơ cấu lại nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới... Thu hồi toàn bộ số vốn ứng trước kế hoạch từ năm 2016 trở về trước còn lại chưa thu hồi. Đồng thời, trong giai đoạn 2021-2025, đầu tư hoàn thành tuyến đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông, tuyến đường bộ ven biển cả nước, các tuyến đường kết nối, các cảng hàng không, cảng biển… góp phần giảm thời gian lưu thông hành khách và hàng hóa, tiết kiệm nhiên liệu, giảm chi phí vận tải, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, mở rộng không gian phát triển, tạo quỹ đất cho đầu tư sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả tài nguyên biển, phát triển kinh tế biển... Hạn chế tác động, góp phần chủ động ứng phó và thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh nguồn nước cho một số vùng, khu vực chịu ảnh hưởng, bảo đảm đời sống nhân dân và mục tiêu phát triển nhanh, bền vững.
Trên cơ sở báo cáo một số nội dung chủ yếu về tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020, dự kiến kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, Chính phủ báo cáo Quốc hội xem xét, cho ý kiến chỉ đạo.
Cơ chế thu hút đầu tư PPP chưa đồng bộ
Thẩm tra về tình hình thực hiện Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức Hải cho biết, Ủy ban Tài chính, Ngân sách cơ bản tán thành với một số nhận định về kết quả đạt được tại Báo cáo của Chính phủ. Trong giai đoạn vừa qua, Chính phủ cùng các bộ, cơ quan trung ương, địa phương đã khẩn trương, nghiêm túc triển khai các nhiệm vụ, mục tiêu mà Nghị quyết 26 đặt ra và đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 2016-2020 ước đạt 33,4% GDP, đạt mục tiêu bình quân 5 năm theo Nghị quyết số 142/2016/QH14 của Quốc hội (32-34%). Tổng số thực hiện Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 là 2.114.940 tỷ đồng, vượt 114.940 tỷ đồng so với kế hoạch đã được Quốc hội quyết định. Việc huy động vốn đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước đã được chú trọng, tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực ngoài nhà nước trên tổng đầu tư toàn xã hội có xu hướng tăng lên, từ 38,9% năm 2016 lên 46% năm 2019.
Về cơ bản, việc phân bổ vốn đầu tư công đã tuân thủ nguyên tắc, tiêu chí, định mức. Công tác quản lý đầu tư công chuyển biến tích cực, tính công khai, minh bạch, hiệu quả đã được cải thiện. Các dự án hoàn thành đưa vào sử dụng trong giai đoạn đã phát huy hiệu quả kinh tế xã hội, tạo động lực quan trọng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững.
Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức Hải cho rằng, bên cạnh một số kết quả đạt được, qua giám sát thực tế và làm việc với một số bộ, ngành, ngoài những tồn tại, hạn chế nêu trong Báo cáo của Chính phủ, còn một số hạn chế. Cụ thể, trong tổng số thực hiện Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020, vốn đầu tư nguồn Ngân sách Trung ương chỉ đạt 977.600 tỷ đồng, thấp hơn 142.400 tỷ đồng so với kế hoạch, trong khi đó, vốn đầu tư nguồn Ngân sách địa phương vượt 257.340 tỷ đồng. Tỷ lệ chi đầu tư giữa Ngân sách Trung ương và Ngân sách địa phương có xu hướng giảm dần qua các năm, điều này cho thấy vai trò chủ đạo của Ngân sách địa phương chưa được đảm bảo theo đúng quy định của Luật Ngân sách nhà nước.
Tiến độ của một số dự án quan trọng quốc gia, các dự án trọng điểm chậm, một số công trình phải điều chỉnh tổng mức đầu tư lớn, ảnh hưởng đến cân đối nguồn lực, hiệu quả vốn đầu tư, có dự án vi phạm pháp luật đến mức phải xử lý hình sự. Cơ chế thu hút đầu tư PPP chưa đồng bộ, một số dự án dự kiến sử dụng nguồn lực PPP không thực hiện được, phải chuyển sang đầu tư bằng nguồn Ngân sách nhà nước (NSNN).
Vốn đầu tư ứng trước chưa thu hồi còn khá lớn
Mặc dù số dự án khởi công mới trong giai đoạn này đã giảm nhiều so với giai đoạn trước nhưng số lượng dự án mới vẫn lớn. Một số địa phương chưa thực hiện các cam kết bố trí kế hoạch vốn, dẫn đến kéo dài thời gian thực hiện dự án. Một số công trình đang nợ đọng xây dựng cơ bản từ giai đoạn trước nhưng chưa báo cáo; Vốn đầu tư ứng trước chưa thu hồi còn khá lớn.
Còn tình trạng khởi công mới trong khi nhiều dự án bị giãn, hoãn tiến độ từ giai đoạn trước chưa được bố trí vốn để tiếp tục thi công. Sử dụng nguồn dự phòng chung và dự phòng 10% để lại tại Bộ, ngành, địa phương còn dàn trải. Việc hoàn thiện các thủ tục đầu tư, giao kế hoạch vốn trung hạn trong một số trường hợp còn chậm, sử dụng nguồn vốn ODA, việc xây dựng Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 chưa sát với thực tế.
Công tác giải ngân còn chậm, nhất là các dự án sử dụng vốn ODA. Việc thực hiện điều chỉnh vốn từ các dự án chậm tiến độ, tỷ lệ giải ngân thấp sang các dự án có khả năng giải ngân chưa quyết liệt.
Về nguyên nhân của tồn tại, hạn chế, Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội cho rằng Luật Đầu tư công 2014 lần đầu được triển khai thực hiện, quy định nhiều nội dung mới, một số điểm chưa chi tiết, phải chờ các văn bản hướng dẫn, chậm triển khai, một số quy định khi triển khai áp dụng đã làm phát sinh vướng mắc. Một số chính sách, nhất là các chính sách liên quan đến giải phóng mặt bằng, đấu thầu và giao kế hoạch, giải ngân vốn ODA còn nhiều vướng mắc. Đồng thời, do đây là lần đầu tiên xây dựng và thực hiện Kế hoạch đầu tư công trung hạn nên khó tránh khỏi việc chưa nắm vững về kế hoạch trung hạn và cách thức triển khai nên còn khó khăn, lúng túng.
Ngoài ra, năm 2020, dịch bệnh Covid - 19 đã tác động nghiêm trọng đến việc thực hiện Kế hoạch đầu tư công trung hạn, nhiều dự án không triển khai được theo tiến độ, nguồn lực hạn chế.
Bên cạnh đó, việc ban hành các văn bản hướng dẫn Luật Đầu tư công 2014, Nghị quyết 26 chậm. Việc chấp hành các quy định pháp luật về đầu tư công trong một số trường hợp chưa nghiêm. Việc không phân bổ đủ vốn thể hiện những hạn chế trong nghiên cứu, đánh giá, xây dựng kế hoạch, chưa đánh giá được hết các yếu tố ảnh hưởng thu ngân sách, dẫn tới không đủ nguồn lực để thực hiện Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020.
Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức Hải cho biết, về hồ sơ, tài liệu báo cáo về xây dựng Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, theo quy định tại Điều 49, Điều 60 của Luật Đầu tư công năm 2019, Báo cáo của Chính phủ còn chưa đầy đủ, thiếu một số thông tin như: Tổng mức vốn Ngân sách Trung ương chi tiết theo từng ngành, lĩnh vực, dự kiến mức phân bổ cho từng Bộ, cơ quan trung ương và mức vốn bổ sung có mục tiêu từ Ngân sách Trung ương cho ngân sách từng địa phương; cơ cấu vốn theo vùng miền; Sắp xếp thứ tự ưu tiên, lựa chọn danh mục dự án và mức vốn bố trí cụ thể cho từng dự án trong trung hạn. Ủy ban Tài chính, Ngân sách đề nghị Chính phủ sớm bổ sung, hoàn thiện báo cáo, bảo đảm đầy đủ, theo đúng quy định của Luật Đầu tư công.
Về mục tiêu, định hướng, nguyên tắc xây dựng Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, Ủy ban Tài chính, Ngân sách đề nghị việc xây dựng Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 phải tuân thủ, bảo đảm phù hợp với các Nghị quyết của Đảng trong giai đoạn tới; tuân thủ Hiến pháp, pháp luật về ngân sách và đầu tư công; phù hợp với mục tiêu, định hướng phát triển tại Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025; phù hợp với kế hoạch tài chính 05 năm quốc gia giai đoạn 2021-2025; Dự báo tình hình tác động của đại dịch Covid-19 và những thách thức khó khăn của kinh tế thế giới.
Bám sát quy định về các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư công, khắc phục những tồn tại, hạn chế trong giai đoạn 2016-2020. Chú trọng nguồn lực cho các vùng miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu. Đối với các CTMTQG cần rà soát, tránh trùng lặp đối tượng, địa bàn, nội dung chính sách.
Phải bảo đảm khả năng cân đối nguồn vốn đầu tư công, bám sát tình hình thực tế, phù hợp với thực lực tài chính, coi trọng bảo đảm các cân đối vĩ mô, giữ vững an toàn nợ công.
Tiếp tục thực hiện hiệu quả cơ cấu lại đầu tư, huy động tối đa nguồn lực ngoài NSNN. Đối với các dự án ODA, cần thận trọng trong việc huy động nguồn vốn này, đảm bảo hiệu quả dự án, lợi ích quốc gia; Giữ vững vai trò chủ đạo của NSTW.
Việc cân đối nguồn vốn cần được tính toán kỹ lưỡng hơn
Theo báo cáo của Chính phủ, trong giai đoạn 2021-2025, dự kiến vốn đầu tư từ nguồn NSNN là 2.750.000 tỷ đồng. Về vấn đề này, Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội cho rằng, để khắc phục hậu quả đại dịch Covid19, tạo cú hích về nguồn vốn cho phát triển kinh tế, để có những bước đột phá, tăng trưởng thì việc tăng tổng mức đầu tư NSNN trong giai đoạn 2021-2025 cao hơn giai đoạn 2016-2020 là cần thiết. Vì vậy, cơ bản nhất trí với tổng số vốn Chính phủ dự kiến. Tuy nhiên, đề nghị Chính phủ tiếp tục rà soát để bảo đảm tính khả thi của kế hoạch, giữ an toàn nợ công, bảo đảm nguyên tắc số bội chi NSNN phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển và việc bố trí dự toán chi đầu tư hàng năm phải căn cứ vào khả năng thu NSNN thực tế theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước.
Về cơ cấu nguồn vốn, Ủy ban Tài chính, Ngân sách cho rằng, cơ cấu dự kiến này đã sát hơn với thực tế. Trong giai đoạn 2016-2020, vốn đầu tư nguồn Ngân sách địa phương đạt 1.135.000 tỷ đồng, vượt 255.000 tỷ đồng so với kế hoạch. Dự kiến trong giai đoạn 2021-2025, số kế hoạch này tăng 20,7% so với thực hiện giai đoạn trước là có tính khả thi. Tuy nhiên, đối với vốn đầu tư nguồn Ngân sách Trung ương, số kế hoạch tương đối cao so với số thực hiện của giai đoạn trước, tăng 41,2%. Vì vậy, trong giai đoạn 2021-2025, việc cân đối nguồn vốn cần được tính toán kỹ lưỡng hơn, đồng thời, phải bảo đảm vai trò chủ đạo của Ngân sách Trung ương theo đúng quy định của Luật Ngân sách Nhà nước.
Thẩm tra về phương án phân bổ kế hoạch đầu tư vốn Ngân sách Trung ương, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách cho biết, Chính phủ dự kiến phân bổ 1.242.000 tỷ đồng, để lại 10% dự phòng. Trong đó, vốn nước ngoài là 270.000 tỷ đồng, bằng giai đoạn trước; vốn trong nước là 972.000 tỷ đồng, bằng 99,4% số thực hiện của giai đoạn trước. Về vấn đề này Ủy ban Tài chính, Ngân sách đề nghị Chính phủ rà soát, xác định tổng số vốn vay trong nước và nước ngoài cho đầu tư phát triển để Chính phủ chủ động điều hành, tránh bị động phải điều chỉnh như giai đoạn vừa qua.
Về cơ cấu sử dụng vốn, theo Báo cáo, Chính phủ dự kiến bổ sung có mục tiêu cho các địa phương 270.000 tỷ đồng và bố trí cho các bộ, ngành 270.000 tỷ đồng, các nhiệm vụ, chương trình, dự án cụ thể khoảng 332.000 tỷ đồng các Chương trình mục tiêu quốc gia là 100.000 tỷ đồng. Ủy ban Tài chính, Ngân sách nhấn mạnh, trong lúc Ngân sách Trung ương còn rất nhiều khó khăn, nhiều bộ, ngành không được bố trí đủ nhu cầu cấp thiết, Chính phủ cần báo cáo rõ hơn cơ cấu và tương quan vốn bố trí cho các bộ, ngành với số bổ sung có mục tiêu cho địa phương và các dự án trọng điểm để đảm bảo cơ cấu vốn hợp lý.
Bên cạnh đó, đa số thành viên của Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội cũng cho rằng, việc để lại dự phòng là cần thiết và mức 10% là hợp lý để xử lý những vấn đề có thể phát sinh trong quá trình thực hiện, tương tự như giai đoạn 2016-2020. Có ý kiến đề nghị cân nhắc tăng thêm tỷ lệ dự phòng chung khoảng 15%.
Để thực hiện Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội đề nghị Chính phủ khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư công 2019, trong đó có tiêu chí đánh giá hiệu quả dự án. Đối với Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, cần kịp thời ban hành nghị định hướng dẫn, tránh tình trạng chậm trễ, ảnh hưởng đến khả năng huy động nguồn lực ngoài NSNN.
Nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu các bộ, ngành, địa phương và cần bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư từ NSNN. Thực hiện dứt điểm thanh toán nợ xây dựng cơ bản và không để phát sinh nợ xây dựng cơ bản.
Đẩy nhanh tiến độ của các dự án quan trọng quốc gia, các dự án trọng điểm, đẩy nhanh tiến độ giải ngân, thực hiện nghiêm việc điều chuyển vốn trong trường hợp chậm giải ngân; bảo đảm chất lượng công trình, tránh gây thất thoát, lãng phí NSNN.
Thực hiện quyết liệt việc khai thác tối đa, sử dụng hiệu quả nguồn vốn của các thành phần kinh tế khác, nhất là các dự án PPP. Không bố trí vốn đầu tư phát triển nguồn NSNN vào các lĩnh vực, dự án mà các thành phần kinh tế khác có thể đầu tư. Đồng thời, rà soát thận trọng việc ký kết các hiệp định vay vốn ODA, bảo đảm tính hợp lý trong huy động vốn nước ngoài, giữ vững an toàn nợ công…
Nguồn KTĐT: http://kinhtedothi.vn/phai-bao-dam-kha-nang-can-doi-nguon-von-dau-tu-cong-399445.html