Phạm Hồ Thu: Giữa trữ tình truyền thống và thơ tự do

Thơ Phạm Hồ Thu được dư luận phê bình văn chương nhận xét là giọng điệu thơ nữ khá riêng biệt. Với sự nồng nàn và chân thành hết mực thơ chị mong khắc họa tâm hồn đàn bà luôn hướng tới vẻ đẹp sâu sắc của tình yêu và những giá trị sống. Đọc thơ của Phạm Hồ Thu, ta nhận ra thơ chị có hai mạch chảy thi ca luôn song hành và bồi đắp cho nhau: mạch thơ trữ tình truyền thống và mạch thơ tự do, văn xuôi hiện đại.

Ngay từ bài thơ đầu tiên được người yêu thơ biết đến “Xem tranh Dương Bích Liên vẽ những người đàn bà Hà Nội” được trao giải cuộc thi thơ Báo Văn nghệ, Hội Nhà văn 1989-1990, cho thấy Phạm Hồ Thu với điệu ngắt nhịp tự do, giàu chất suy tưởng nội tâm đã hướng đến một mạch thơ khác trước.

Bài thơ là một thi phẩm mang đậm chất hoài niệm, ngưỡng mộ và suy tư: “Tôi biết ông thật muộn/ Khi ông đã đi xa/ Những người mẫu ngày xưa đã đi lấy chồng…/ Tôi gặp những người đàn bà trong tranh/ có đôi mắt buồn/ Những dáng dấp tận cùng Hà Nội …/ Hà Nội của tôi và của ông/ Ngày xưa mơ mộng và trong trẻo nhường kia/ Cổ kính và lịch lãm nhường kia/ Dịu dàng và kiêu hãnh nhường kia/ Với những tà áo dài, cây đàn ghi ta, sắc lá vàng thu/ Và những ánh mắt buồn… Tôi bỗng muốn biết thật nhiều về ông/ Về Hà Nội ngày xưa đã khuất/ Ông đã sống thế nào giữa ồn ào phố xá/ Để tìm ra sự mơ mộng, lịch lãm/ và kiêu hãnh nhường kia”.

Nhà thơ Phạm Hồ Thu.

Nhà thơ Phạm Hồ Thu.

Thơ của biểu tượng sống và khát vọng yêu

Trong bài thơ “Xem tranh Dương Bích Liên”, tác giả với giọng thơ nhẹ nhàng, trầm lắng, nhuốm màu hoài niệm và ngưỡng vọng. Không bi lụy, cũng không khoa trương, bài thơ như một lời thủ thỉ, tâm tình với chính mình, với người nghệ sĩ tài hoa đã khuất, và với một Hà Nội xưa mộng mơ.

Hình ảnh những người đàn bà Hà Nội trong tranh Dương Bích Liên là sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài thơ. Bài thơ là tiếng vọng của một tâm hồn yêu nghệ thuật, yêu cái đẹp và khao khát hiểu về quá khứ, về cái hồn của Hà Nội. Ẩn sâu trong đó là nỗi tiếc nuối trước sự phai nhạt của những giá trị xưa trong vòng xoáy hiện đại, là niềm ngưỡng mộ dành cho một tâm hồn nghệ sĩ đã lưu giữ được vẻ đẹp ấy qua tranh vẽ.

Cũng với những hoài niệm về Hà Nội xưa, bài thơ “Hà Thành cổ điển” của Phạm Hồ Thu là một bản giao hưởng của tình yêu mang vẻ đẹp cổ điển, sâu lắng, gói gọn trong chất thơ nữ tính, tinh tế và đầy rung cảm.

Bài thơ không chỉ là tiếng lòng dành cho một Hà Nội trầm mặc, mà còn là lời tỏ tình với vẻ đẹp của ký ức, của những điều không thể thay thế bằng hiện đại ồn ào: “Sao ta nhớ một Hà thành cổ điển/ Những mái ngói rêu phong tưởng đã sáo mòn trong bao lời nói cũ/ Chiều nay đàn sâm cầm đập cánh/ Mang hồn rêu phong trở về.../ Thảng thốt tiếng leng keng tàu điện/ Chở tuổi thơ ta trôi về chợ Bưởi/ Trôi về Hà Đông xứ lụa/ Rồi trả ta về Hà Nội phố/ Hoa lá vương trong hồn/ Những người đàn bà cổ điển hơn mọi mùa cổ điển..”.

Hai bài thơ, hai sắc thái về Hà Nội đã khơi gợi một nỗi nhớ da diết không chỉ hướng về không gian vật lý mà còn là không gian tâm hồn của người yêu thành phố này. Thơ này giàu chất hoài niệm, mang vẻ đẹp cổ kính và nữ tính, gợi lên một Hà Nội đã xa mà vẫn sống động trong tâm tưởng người yêu nó. Phạm Hồ Thu đã vẽ nên một Hà Nội bằng cảm xúc, bằng những chi tiết gợi cảm để rồi tình yêu với Hà Nội cũng trở thành tình yêu với một lối sống, một vẻ đẹp tinh tế mà thời gian không thể xóa nhòa.

Trong thơ Phạm Hồ Thu, biểu tượng của sự sống và khát vọng yêu là một trường liên tưởng suy ngẫm, trong đó tình yêu như một cách chống lại lãng quên và cái chết. Điều này thể hiện rất rõ trong bài thơ "Đêm Beethoven” viết cho những lứa đôi của một thế hệ: “Bản giao hưởng Định mệnh đã vang lên. Xin cảm ơn Người - Beethoven, những âm thanh chói sáng của Người đã phủ lên hai ta và bạn bè ta cái giai điệu mãnh liệt ngợi ca sự sống. Phủ lên nụ hôn này tiếng một dòng sông thao thiết chảy, tiếng vỗ cánh của chú đại bàng ngàn tuổi, tiếng núi đổ rền vang xao xuyến, tiếng thinh không lẳng lặng, tiếng thì thầm muôn thuở ngợi ca Con Người…/ Người đừng hỏi vì sao ta hôn lên đôi mắt buồn này, vầng trán buồn này dành cho ta vĩnh viễn và ta nói rằng: Nụ - hôn - này - vĩnh - viễn - của - anh/ Người đừng hỏi vì sao ta trở nên cứng rắn hơn mọi người đàn bà, yếu mềm hơn mọi người đàn bà, dịu dàng hơn mọi người đàn bà, nũng nịu hơn mọi người đàn bà trong vòng tay Người xiết chặt và hóa đá vào nụ hôn Người…/ xin cảm ơn Người - Beethoven, những âm thanh chói sáng của Người mừng một ngày Tình yêu trở lại”.

Sự trải nghiệm khi tình yêu đối kháng với định mệnh

“Đêm Beethoven” là bài thơ văn xuôi khá đặc sắc, một bản hòa âm thi ca tràn đầy cảm xúc, kết hợp giữa tình yêu cá nhân, ký ức thời đại và tinh thần nhân văn mãnh liệt. Ở đó, âm nhạc của Beethoven không chỉ là chất xúc tác cho cảm xúc, mà còn là biểu tượng của sự sống, tình yêu, và cả khát vọng vượt lên mất mát, đau thương của một thế hệ.

Tác giả không gọi tên tình yêu bằng tiếng gọi riêng, mà dùng chính bản giao hưởng số 5, biểu tượng định mệnh để mở ra khung cảnh thiêng liêng, hùng tráng, nơi tình yêu cá nhân hòa vào tình yêu sự sống. Những âm thanh gợi nhắc đến cả thiên nhiên và tâm hồn, sự mãnh liệt của cảm xúc và khát vọng sống không đầu hàng số phận.

Bản nhạc vang lên như một lời hiệu triệu tình yêu: “Hãy yêu trong lúc còn sống”. Tình yêu trở thành một chứng cứ sống động để đối kháng lại định mệnh và chiến tranh như cách Beethoven viết nên giao hưởng trong cảnh mù lòa.

“Đêm Beethoven” là một bản tình ca đẫm lệ, kết hợp giữa chất sử thi và chất trữ tình, giữa nhạc cổ điển phương Tây và nỗi đau riêng của một thế hệ Việt Nam. Bài thơ không chỉ nói về tình yêu đôi lứa, mà còn là lời tri ân tuổi trẻ, ký ức, và sức mạnh hồi sinh từ chính mất mát. Giọng thơ nữ tính, đầy chiều sâu cảm xúc, và để lại dư âm dài lâu như chính một bản giao hưởng định mệnh.

Là một nhà báo từng đi qua thời trận mạc mất mát và đau thương ở chiến trường phía Nam, nhà thơ Phạm Hồ Thu luôn khao khát cuộc sống bình yên cho quê hương và con người. Bài thơ “Bình yên khao khát” của chị không chỉ là lời thổ lộ của một người phụ nữ đã đi qua những thăng trầm, mà còn là tiếng vọng của một thế hệ từng đánh đổi tuổi trẻ, tình yêu và niềm tin cho chiến tranh, lịch sử, và đời sống.

Với lối viết giàu hình ảnh, cảm xúc sâu lắng và giọng thơ đằm thắm, Phạm Hồ Thu đã vẽ nên một hành trình đi tìm bình yên không phải để quay lại quá khứ, mà để nhận ra giá trị của hiện tại: “Trong đôi mắt buồn Anh? Làm sao tìm lại bình yên/ Tuổi thơ tôi những triền cát trắng/ Vết chân trần chạy trên bờ sông buổi sớm/ Bếp lửa mùa đông bà ngoại nhóm lên rồi/ Cháy trong tiếng gà gọi bình minh/ Làm sao tìm lại bình yên/ Mỗi buổi sáng vườn quê chim hót/ Lời tỏ tình nghe như mật rót/ Như mơ hồ những cánh chim bay…/ Tuổi hai mươi khoác ba lô ra trận/ Âu yếm hôn dấu chân anh để lại/ Khóc trên những dấu chân trần người chiến sĩ đi qua/ Làm sao tìm lại bình yên/ Lòng tin lắm những chân trời có thật”.

Bài thơ là một bản độc thoại tâm hồn, da diết và lặng lẽ, khắc họa hành trình đi tìm lại sự bình yên đã mất giữa dòng đời đầy biến động. Bình yên ở đây không đơn thuần là sự tĩnh lặng, mà là kí ức, là niềm tin, là những điều giản dị đã vỡ tan trong thời gian và biến cố trận mạc. Hình ảnh người mẹ ru con không khóc là biểu tượng của sự chịu đựng lặng thầm, mang vẻ đẹp của tình mẫu tử Việt Nam vững chãi giữa bão giông. Ở đó, bình yên không còn là sự thanh thản, mà là nỗ lực giữ lấy dịu dàng giữa đau thương.

Bài thơ khép lại bằng một câu hỏi khẽ khàng, như tiếng thì thầm từ sâu thẳm trái tim. Bình yên không phải là đích đến, mà là thứ luôn hiện hữu trong những ánh nhìn chân thật, trong yêu thương không lời. Câu thơ kết như một giọt lệ lặng lẽ rơi vào miền sâu của ký ức.

Tôi thích vẻ đẹp trữ tình đậm chất lãng mạn truyền thống trong thơ Phạm Hồ Thu và cũng thích vẻ đẹp trữ tình giàu tính thế sự hiện đại trong mạch chảy thơ tự do và thơ văn xuôi của chị. Không dễ gì để có được phẩm chất thơ giàu chất thi sĩ ở cả hai mảng thơ này, điều này chứng tỏ sự trải nghiệm của một tâm hồn thơ rất tinh tế với nhiều trăn trở trước cuộc đời và thời gian.

Nhà thơ Phạm Hồ Thu sinh năm 1950 tại huyện Gia Lâm (cũ), Hà Nội; là hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Nghề nghiệp chính là nhà báo, tốt nghiệp Đại học Báo chí năm 1973, đã từng làm việc tại các báo: Báo Nhân dân, Đài Phát thanh Giải phóng, Báo Người Công giáo Việt Nam (thuộc UBTW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam). Vào những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, chị là phóng viên mặt trận của Báo Nhân dân và Đài Phát thanh Giải phóng tại chiến trường khu 5, có mặt tại vùng ven Đà Nẵng và các vùng đất Quảng Nam.

Các tác phẩm chính đã xuất bản: "Quà tặng", "Chiều Trương Chi" (thơ), "Chiến tranh trên gương mặt đàn bà" (trường ca). Các Giải thưởng văn học: Giải thưởng cuộc thi Thơ Báo Văn nghệ (1989 - 1990); Giải thưởng của Ủy ban Liên hiệp các Hội Văn học - Nghệ thuật Việt Nam cho tác phẩm Quà tặng (2001); Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam và Bộ Thương binh - Xã hội cho tập trường ca "Chiến tranh trên gương mặt đàn bà" (2017). Thơ chị đã được giới thiệu tại Mỹ, Italy và Châu Mỹ Latinh.

Nguyễn Việt Chiến

Nguồn VNCA: https://vnca.cand.com.vn/ly-luan/pham-ho-thu-giua-tru-tinh-truyen-thong-va-tho-tu-do-i778924/