Phân loại khu vực tư nhân để hỗ trợ phát triển
GS-TS. Ngô Thắng Lợi (Đại học Kinh tế quốc dân) cho rằng, phát triển kinh tế tư nhân là điều không cần phải bàn cãi. 'Nhưng không phải phát triển kinh tế tư nhân chung chung, mà phải phân loại để có chính sách cụ thể', GS-TS. Lợi nhấn mạnh.

GS-TS. Ngô Thắng Lợi (Đại học Kinh tế quốc dân).
Một cách tổng thể, khu vực kinh tế tư nhân vẫn yếu thế hơn so với kinh tế nhà nước và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Do vậy, khu vực này được hỗ trợ để phát triển mạnh hơn, thưa ông?
Hiện tại, khu vực kinh tế tư nhân chiếm 53,4% tổng vốn đầu tư xã hội; thu hút hơn 82% lao động trong nền kinh tế; đóng góp vào GDP 43% và chiếm tới 57% mức tăng trưởng GDP. Bình quân giai đoạn 2011-2024, khu vực này đạt tốc độ tăng trưởng 6,3%/năm, cao hơn mức bình quân chung toàn nền kinh tế (5,48%/năm). Những con số này khẳng định vững chắc vai trò trung tâm và tiềm năng to lớn của kinh tế tư nhân, đồng thời đặt nền tảng cho việc nâng tầm vị trí của khu vực này thành động lực chính trong thực hiện mục tiêu tăng trưởng nhanh, bền vững.
Tuy nhiên, so với kỳ vọng trở thành trụ cột phát triển kinh tế quốc gia, kinh tế tư nhân vẫn còn nhiều bất cập. Hiện nay, đây là khu vực có hiệu quả kinh doanh, ứng dụng khoa học công nghệ, năng suất lao động và thu nhập người lao động thấp nhất trong các thành phần kinh tế. Khu vực này cũng đang có dấu hiệu “hụt hơi” trong quá trình phát triển.
Nhiều nguyên nhân dẫn đến sự hụt hơi của kinh tế tư nhân đã được chỉ ra, như nhận thức chưa đầy đủ về vai trò của kinh tế tư nhân; thể chế và chính sách còn thiếu; sự liên kết trong chính khu vực này lỏng lẻo; bản thân nội tại của kinh tế tư nhân. Thực tế đó được khắc phục càng sớm, thì khu vực này càng phát triển mạnh mẽ, bởi Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh: “Phát triển kinh tế tư nhân - đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng”.
Khu vực kinh tế tư nhân rất rộng. Theo ông, nên phân loại ra sao giữa kinh tế tư nhân và doanh nghiệp tư nhân?
Loại hình kinh tế, theo cách phân chia của Cục Thống kê (Bộ Tài chính), hiện chỉ có 3 khu vực là nhà nước, tư nhân và có vốn đầu tư nước ngoài. Trong khu vực kinh tế tư nhân, ngoài doanh nghiệp tư nhân với tất cả loại hình, còn có hợp tác xã, hộ sản xuất nông nghiệp; hộ gia đình, cá nhân kinh doanh cá thể kể cả có hay không có đăng ký kinh doanh.
Ngoài ra, còn có lao động tự do, từ những người làm trong khu vực nghệ thuật, vui chơi giải trí, kiến trúc, giáo dục, đào tạo... đến bà bán nước, anh xe ôm. Nói chung là tất cả người lao động làm ở khu vực phi chính thức đều nằm trong khu vực kinh tế tư nhân.
Tổng Bí thư Tô Lâm đã có bài viết: “Phát triển kinh tế tư nhân - đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng”, một mặt đánh giá rất cao khu vực kinh tế này, mặt khác cũng chỉ ra nhiều tồn tại, hạn chế và nhấn mạnh, một nền kinh tế cường thịnh không thể chỉ dựa vào khu vực nhà nước hay đầu tư nước ngoài, mà phải dựa vào nội lực là khu vực kinh tế tư nhân vững mạnh, đóng vai trò tiên phong trong đổi mới và phát triển đất nước.
Nhận định của Tổng Bí thư là chân lý và tất cả các nền kinh tế trên thế giới, muốn phát triển đều phải tập trung phát triển doanh nghiệp bản địa. Nhưng dường như chúng ta đang đánh đồng khu vực kinh tế tư nhân với doanh nghiệp tư nhân.
Nhận thức về kinh tế tư nhân đang có sự thay đổi; cơ chế, chính sách, thể chế đang dần hoàn thiện. Để phát triển khu vực này, ông có nghĩ là cần phải phân tách thành phần cụ thể để có cơ chế, chính sách phù hợp?
Nhận thức hay tư duy về kinh tế tư nhân chắc chắn thay đổi mạnh mẽ, tổ chức, cá nhân nào chưa chịu thay đổi, vẫn coi kinh tế tư nhân là “chiếu dưới” cũng buộc phải thay đổi, vì đã có tới 3 “thượng phương bảo kiếm” sắc nhọn là Nghị quyết 68/NQ-TW, Nghị quyết 198/2025/QH15 và Nghị quyết 139/NQ-CP. Khi nhận thức và tư duy thay đổi, thì tự khắc cơ chế, chính sách thay đổi, kéo theo sự thay đổi tự thân của khu vực kinh tế tư nhân.
Các nghị quyết chỉ định hướng, đặt ra các mục tiêu tổng thể và mục tiêu cụ thể, còn cụ thể hóa thế nào thuộc trách nhiệm của các văn bản hướng dẫn. Nếu không có sự phân tách cụ thể từng thành phần cấu thành nên kinh tế tư nhân, thì các cơ chế, chính sách sẽ chung chung, rất khó đi vào cuộc sống.
Hiện tại, kinh tế tập thể và hợp tác xã đã có Luật Hợp tác xã và Nghị quyết 20/NQ-TW năm 2022. Hộ gia đình, cá nhân sản xuất nông nghiệp đã và đang được hưởng nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ, trong đó có việc tiếp tục miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đến năm 2030 theo Nghị quyết 126/2025/QH15.
Khu vực doanh nghiệp đã có đầy đủ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, trong đó doanh nghiệp tư nhân, bất kể lớn hay nhỏ, cũng bình đẳng như doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tức là chưa có cơ chế, chính sách riêng, đặc thù, ngoài Luật Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng rất nhiều quy định khó đi vào cuộc sống.
Như vậy, còn thiếu hẳn mảng hộ gia đình, cá nhân kinh doanh và lao động phi chính thức?
Theo số liệu của Cục Thống kê, hiện có khoảng 19,5 triệu người tham gia khu vực lao động phi chính thức (không tính lao động làm việc trong hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản); 3,14 triệu hộ gia đình, cá nhân kinh doanh. Lực lượng lao động này đã và đang đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế, xã hội, đặc biệt là việc làm, thu nhập, nên cần có cơ chế, chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho khu vực này. Đặc biệt, lao động phi chính thức có thu nhập thấp, bấp bênh, vất vả, nhưng vẫn chỉ là... phi chính thức.
Khu vực kinh tế tư nhân rất rộng, có nhiều thành phần, vì vậy, cần phải có những cơ chế, chính sách riêng biệt, chứ không thể có chính sách phát triển kinh tế tư nhân chung chung cho tất cả. Không thể áp dụng cùng một chính sách cho doanh nghiệp đối với hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân, khu vực phi chính thức. Thậm chí, không thể áp dụng tất cả các chính sách cho cả doanh nghiệp vừa và lớn với doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ.
Nhưng thưa ông, nếu tất cả các thành phần trong khu vực kinh tế tư nhân đều được ưu tiên, ưu đãi, thì không thể đủ nguồn lực?
Nguồn lực ở đây không phải chỉ là hỗ trợ, ưu đãi về tài chính, vốn liếng, đất đai, thuế khóa, mà là cơ chế, chính sách thông thoáng, dễ hiểu, dễ thực hiện; tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh công khai, minh bạch, bình đẳng. Chẳng hạn, với 3,24 triệu hộ gia đình, cá nhân có đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế, hiện có doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở xuống, cần có thêm giải pháp phát triển khu vực này.
Mục tiêu có 2 triệu doanh nghiệp vào năm 2030 nhiều khả năng đạt được, nhưng chắc chắn không thể có chính sách áp dụng chung cho cả 2 triệu doanh nghiệp, mà chỉ cần tập trung vào doanh nghiệp lớn.
Theo Danh sách 500 doanh nghiệp có quy mô lớn nhất (VNR500), số lượng doanh nghiệp tư nhân đã tăng lên nhanh chóng, từ 263 đơn vị vào năm 2016 lên 315 đơn vị vào năm 2023; trong VNR50 cũng đã tăng gấp đôi từ 11 lên 22 trong cùng một khoảng thời gian. Trong nội bộ khu vực kinh tế tư nhân, 500 doanh nghiệp lớn nhất chỉ chiếm 0,075% số lượng, nhưng thu hút 12% lao động, chiếm 28% tổng tài sản và 18,4% doanh thu của các doanh nghiệp tư nhân trên cả nước. Hiệu quả, năng suất lao động, doanh thu, thu nhập người lao động của 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất cũng cao hơn phần còn lại.
Doanh nghiệp tư nhân lớn là những con sếu đầu đàn, là lực lượng dẫn dắt khu vực kinh tế tư nhân, chứ không phải doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, nên cần tập trung hỗ trợ thành phần này, chứ không phải toàn bộ khu vực kinh tế tư nhân. Đơn cử, một dự án khu đô thị mới do doanh nghiệp lớn thực hiện sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ cung cấp sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cho cư dân tại các khu đô thị.
Nguồn Đầu Tư: https://baodautu.vn/phan-loai-khu-vuc-tu-nhan-de-ho-tro-phat-trien-d366618.html